Top 5 mẫu phân tích bức tranh thiên nhiên Tây tiến hay nhất

Bức tranh tự nhiên trong Tây tiến
- 1. Dàn ý phân tách bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến
- 2. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 1
- 3. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 2
- 4. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 3
- 5. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 4
Bức tranh tự nhiên trong bài thơ Tây Tiến được tác giả Quang Dũng khắc họa nên cực kỳ hùng vĩ và hoa lệ. Sau đây là dàn ý bức tranh tự nhiên trong Tây tiến và bài văn mẫu phân tách vẻ đẹp tự nhiên tronhg bài thơ Tây tiến hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo.
- Top 5 bài phân tách đoạn 3 Tây Tiến hay lựa chọn
1. Dàn ý phân tách bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến
I. Mở bài:
– Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm
+ Quang Dũng là 1 nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ở bình diện thơ ca, Quang Dũng là 1 thi sĩ mang hồn thơ hào phóng, hồn hậu, lãng mạn và tài giỏi – đặc trưng lúc ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình.
+ “Tây Tiến” là bài thơ trình bày tập hợp nhất những nét đặc biệt trong cá tính nghệ thuật của Quang Dũng. Bài thơ được coi là 1 tuyệt tác về đề tài người lính giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong bài thơ, với cảm hứng lãng mạn bay bổng nhưng mà vẫn đậm chất hiện thực, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh tự nhiên của núi rừng miền Tây: vừa hùng vĩ, dữ dội vừa mĩ lệ, nên thơ.
II. Thân bài:
– Gicửa ải thích, khái lược về vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội: bao la, gây được ấn tượng mạnh bạo, và cả đáng sợ; vẻ đẹp nên thơ, mỹ lệ: hấp dẫn, kì ảo.
– Phân tích các căn cứ để làm rõ vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội và lãng mạn, nên thơ của tự nhiên núi rừng Tây Bắc trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.
– Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của tự nhiên núi rừng Tây Bắc chủ công được trình bày trong các câu thơ tả sương núi chi chít, dối núi hiểm trở và sự hoang vu, bí ẩn của núi rừng. Chi tiết là:
+ “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi“: Màn sương ở Sài Khao bát ngát, chi chít có thể che kín cả 1 đoàn quân, trùm phủ núi rừng.
+ “Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời – Ngàn thước lên cao nghìn thước xuống“: Dốc núi vòng quanh, trập trùng như bất tận, 1 bên vút lên cao vút trời, 1 bên vụt đổ xuống vực sâu.
+ “Chiều chiều oai linh thác gầm thét – Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người“: Núi rừng miền Tây hoang vu, bí ẩn bởi tiếng thác oai linh, tiếng cọp hú gầm. Sức mạnh tự nhiên kinh khủng đó đã ngự trị nơi núi rừng miền Tây từ bao đời.
– Vẻ đẹp lãng mạn, nên thơ của tự nhiên núi rừng miền Tây chủ công được trình bày trong các câu thơ mô tả hoa, mưa rừng, chiều sương,… Chi tiết là:
+ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi“: Hoa rừng tỏa hương, vấn vương trong đêm sương.
+ “Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi“: Thung lũng mịt mờ, nhạt nhòa trong mưa.
“Người đi Châu Mộc chiều sương đó – Có thấy hồn lau nẻo bờ bến – … Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa“: 1 chiều sương với hoa lau xao xác trắng xóa núi rừng; sắc trắng của hoa lau trong chiều sương nhạt nhòa, mờ ảo, cái phất phơ của nghìn lau trong xạc xào gió núi…đã làm cho rừng lau như phát triển thành có vong linh. Những bông hoa rừng như những cô gái đang soi mình làm duyên trên sông nước chòng chành, sóng sánh.
Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp vừa hùng vĩ dữ dội vừa lãng mạn, nên thơ của tự nhiên núi rừng Tây Bắc bằng văn pháp hiện thực liên kết văn pháp lãng mạn.
Khắc họa tự nhiên Tây Bắc, thi sĩ ko chỉ vẽ nên trước mắt người đọc 1 bức tranh về núi rừng vừa hiểm trở, dưa dội vừa lãng mạn, trữ tình tới nên thơ nhưng mà còn gián tiếp cho thấy hình tượng người lính Tây Tiến với sức mạnh hào hùng, khí thế oanh liệt và vẻ đẹp hào hoa, hùng dũng, lãng mạn. Thiên niên chính là cái nền cảnh để thi sĩ làm nổi trội lên hình ảnh của con người.
III. Kết bài:
Vẻ đẹp vừa hùng vĩ, dữ dội vừa lãng mạn, trữ tình của tự nhiên núi rừng miền Tây đó là 1 trong những nét làm nên trị giá của bài thơ và trình bày cá tính nghệ thuật lạ mắt của bậc a ma tơ Quang Dũng.
2. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 1
“Đường lên Tây Bắc vút xa mờ. Đường lên Tây Bắc mây trắng bập bềnh như mơ… Gặp lại dấu chân ông cha, gặp lại 9 5 gian nan”. Những nhạc điệu trong bài hát Hành binh lên Tây Bắc của nhạc sĩ Nguyễn An Thuyên đã hơn 1 lần đưa ta ngược về thời kì, vượt qua khoảng cách ko gian về với núi rừng Tây Bắc của 1 thời đạn lửa. Giữa rất nhiều tác phẩm văn học khái quát và văn chương thời gian kháng chiến chống Pháp nói riêng in đậm dấu ấn vùng cao Tây Bắc, Tây Tiến của Quang Dũng là bài thơ có địa điểm đặc trưng. Đọc Tây Tiến người ta ko chỉ thấy hiện lên lừng lững bức tượng đài người lính nhưng mà còn ấn tượng thâm thúy về bức tranh tự nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang vu mà ko kém phần thơ mộng, lãng mạn.
Tây Tiến (1948) là nét son hấp dẫn nhất trong đời thơ Quang Dũng. Bài thơ xuất hiện như 1 sự hoà điệu xinh tươi giữa thơ – nhạc – hoạ.
Cả Tây Tiến là 1 nỗi nhớ khôn nguôi của thi sĩ về 1 vùng đất 1 thời chiến trận. Vậy nên, lúc đề cập địa danh này, ta nhận thấy những kí ức của dĩ vãng hiện về thật tươi nguyên, nó chen lấn thực tại, hình thành độ nhoè giữa 2 ko gian: ko gian hiện nay và ko gian hồi ức. Cho nên, dù xa lạ, qua hồn thơ và nỗi nhớ Quang Dũng, các địa danh đó đánh chiếm cõi nhở người đọc, giúp họ yên tâm cùng “Quang Dũng -trôi’ về 1 vùng đất xinh tươi, dữ dội và mơ mộng, đượm đà.
Bao trùm nền cảnh Tây Bắc là vẻ hùng vĩ dữ dội, hiểm trở. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến như mờ ảo, ẩn hiện trong sương khói. Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Những bản mường lạ lẫm được đề cập với bao kỉ niệm mến thương.
Quang Dũng là 1 trong những thi sĩ đã dùng thơ để gợi nhớ trong hồn người những địa danh, những tên làng, tên bản, tên núi, tên sông của
quê hương quốc gia vối bao ý vị đặm đà. Ông ko trao nỗi nhớ của mình những địa chỉ “vu vơ”, ông điểm danh từng tên chi tiết: sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… và sự mặt của các địa danh này tức khắc gợi ra ý niệm về sự ngăn cách, hoang vu. Những địa danh đã gắn bó vơi đầy với tác giả và đi sâu vào tiềm thức thi sĩ. Đoàn quân Tây Tiến tiến quân trong biển sương mù chi chít, trong màn đêm hơi núi, gió rét căm căm của chốn “thâm sơn cùng cốc”. Sương lấp đường đi, lấp dáng người trong mịt mờ. Những nẻo đường tiến quân tranh đấu như kéo dài bất tận:
Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, nghìn thước xuống
Ba câu thơ là 1 minh chứng điển hình cho quan niệm “thi trung hữu hoạ”, bởi những hình ảnh trong bức tranh thơ này được vẽ lên bằng những đường nét có sức nói chung mập và mang tính đặc biệt cao. Nó đã gây được ấn tượng mạnh bạo và gợi ra trong tâm não người đọc vẻ đẹp trập trùng, hoang sơ, hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Cao hơn những màn sương che giấu bóng vía đoàn quân đang vượt dốc, vây bọc lấy những bản làng trong hơi lạnh là những đỉnh núi gồ ghề, hiểm trở cao nghìn thước có mây phủ kín 4 mùa. Lên đến đỉnh, đầu người lính và mũi súng tưởng như chạm vào trời cao: “súng ngửi trời’
Dưới chân họ lại là những vực sâu thăm thẳm nghìn thước. Câu thơ như được ngắt làm đôi, vẽ ra 2 chặng của tuyến đường tiến quân, diễn đạt rất đạt sự cheo leo, chông chênh của đèo và dốc giữa lưng chừng núi. Với câu thơ có nhịp độ bẻ đôi đột ngột trong sự đối lập tương phản, người đọc có thể tưởng tượng dốc lên cao rồi đổ xuống hầu hết thẳng đứng. Nhìn lên cao thì tun hút ko cùng, nhìn xuống thì sâu thăm thẳm tới chóng mặt. Những hình ảnh thơ giàu chất nhạc, chất hoạ đã gợi tả 1 Tây Bắc
hùng vĩ dữ dội hiểm trở để gợi nhớ 1 thời Tây Tiến đầy gian nan, gian nan tới nỗi:
“Anh bạn dãi dầu ko bước nữa
Gục lên súng mũ quên mất đời!”.
Gian khổ tưởng như đã vượt lên trên giới hạn chịu đựng của con người. Những tên địa danh ko gần cận dân dã như thôn Đoài thôn Đông trong thơ Nguyễn Bính nhưng mà cực kỳ lạ lẫm với người đọc mà chính những địa danh đó đã liên tục vẽ lên tuyến đường Tây Tiến 1 thời như khắc như tạc vào tâm não người đọc núi non gồ ghề hiểm trở miền Tây Bắc.
Miền Tây còn là nơi ngự trị của vẻ u ám, hoang dại, là nơi đầy những thách thức gớm ghê đặt ra cho con người. Nó ko chỉ được mở ra theo chiều ko gian với nhưng mà còn được khám phá ở chiều thời kì với những dọa nạt kinh khủng xoành xoạch rình rập;
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
“Chiều chiều” và “đêm đêm” – những khoảng thời kì gợi nỗi buồn trong lòng người thì chỉ nghe thấy tiếng cọp trêu người và tiếng thác sông Mã gầm thét. Điều đấy càng gợi sự hoang vu u ám của núi rừng Tây Bắc. Nghệ thuật phối thanh trắc: “Mường Hịch – cọp trêu người” 2 dấu nặng liền kề gợi cái nặng nề như bước chân thú dữ đang rình rập dọa nạt con người. Rừng già miền Tây Bắc hoang vu u ám bí hiểm luôn là thách thức với người chiến sĩ trên tuyến đường tiến quân.
Vượt qua vẻ hùng vĩ dữ dội, vượt lên trên sự hoang vu hà khắc của rừng núi Tây Bắc, người đại đội trưởng binh đoàn Tây Tiến lúc xưa nhớ về chốn cũ còn ghi lòng tạc dạ trong mình về 1 miền Tây thơ mộng và lãng mạn:
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Hình ảnh nhân hoá “hoa về” gợi nhiều liên tưởng: có thể là hoa nở trong đêm sương, có thể “hoa” là ngọn đuốc trong đêm tiến quân, cũng cỏ thê hiêu là bóng vía người đẹp… “Đêm hơi” tái tạo ko gian núi rừng kì ảo thơ mộng trong màn sương mong manh bập bềnh. Câu thơ phối nhiều thanh bằng gợi cảm giác như sương như hương, như hoa, như hôn người. Hình ảnh hoa về là hình ảnh đa nghĩa, là điểm sáng làm rõ vẻ đẹp tâm hồn người lính, xua đi những mỏi mệt trên tuyến đường tiến quân.
Giữa mạch thơ khắc hoạ tập hợp cái dữ dội tột bực của tự nhiên miền Tây, Quang Dũng đã thả 1 câu thơ toàn thanh bằng với giai điệu lâng lâng, bát ngát trình bày ánh mắt nhìn cực kỳ bay bổng của người lính Tây Tiến:
Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi
“Mưa xa khơi” là hình ảnh tả chân những cơn mưa xối xả nơi núi rừng Tây Bắc bằng cách lấy mưa biển tả mưa rừng. Câu thơ còn như tiếng thở phào nhẹ nhàng của người lính sau lúc vượt qua bao đèo cao suối sâu, tạm ngừng chân bên 1 dốc núi, phóng tầm mắt ra xa, qua 1 ko gian mịt mờ sương rừng mưa núi thấy nhấp nhoáng những ngôi nhà như những cánh buồm bập bềnh trên biển khơi, trong 1 “đêm hơi” mơ hồ kì ảo… gợi 1 niềm ấm cúng thân tình trong lòng người. Câu thơ như 1 gam màu lạnh giữa những gam màu hot làm dịu lại cả đoạn thơ.
Những địa danh “Mường Lát”, “Pha Luông” đọc lên nghe êm dịu thích hợp với nét thơ mộng của cảnh ko gian được mỏ rộng ra mênh mông vừa cao rộng vừa xa vừa mờ như 1 bức tranh thuỷ mặc. Thiên nhiên Tây Bắc là vậy, hùng vĩ hiểm trở mà cũng rất mực trữ tình lãng mạn, để lại dấu ấn khó phai trong ký ức người lính Tây Tiến.
4 câu sau của đoạn thơ thứ 2 về bức tranh sông nước miền Tây là nét vẽ hoàn chỉnh về tự nhiên Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng:
Người đi Châu Mộc chiều sương đó
Có thấy hồn lau nẻo bờ bến
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa
Cảnh vật Tây Bắc trong 4 câu thơ này cũng vẫn được dệt nên bằng xúc cảm hồi ức, là sự nối tiếp của cái nỗi “nhớ chơi vơi” ở phần đầu bài thơ, là sự tiếp theo của nỗi nhớ “hội hoa chúc” ở 4 câu trước, cảnh Tây Bắc ở đây là 1 buổi chiều Châu Mộc được giăng mắc bởi 1 màn sương mờ, có dòng sông đôi bờ thầm lặng, hoang dại như đôi bờ tiền sử, như 1 miền cổ tích. 1 lần nữa, hình ảnh sương khói lại hiện ra biến thành ko gian đặc biệt về Tây Tiến trong nỗi nhớ, biến thành thời kì của hoài niệm xinh tươi, mờ ảo của sương khói miền Tây Bắc. Cũng giống như Chế Lan Viên lúc nhớ về Tây Bắc:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng mến thương
Người và cảnh hòa quyện với nhau hình thành 1 vẻ đẹp vừa có hồn vừa man mác, bóng gió. Bởi nhớ cảnh núi rừng miền Tây trong buổi chiều sương mà là nhớ đến hồn lau. Hình ảnh hồn lau đầy thơ mộng là 1 nét đẹp của chiều sương Châu Mộc. Mùa xuân hoa lau nở tím rừng, sang thu hoa lau nở trắng rừng. Hoa lau, cờ lau phơ phất, lá lau kêu xạc xào trong gió thu. Câu thơ “Cỏ thấy hồn lau nẻo bờ bến” đúng là câu thơ mang đậm chất tâm hồn thi nhân” (GS. Phan Cự Đệ). Rồi, trên cái nền của dòng sông đậm sắc màu cổ tích và huyền thoại đó, nổi trội lên hình dạng tha thướt, uyển chuyển của cô gái vùng cao trên chiếc thuyền “độc mộc” cùng cái tình tứ “đu đưa” làm duyên của những bông hoa bên dòng nước lũ.
Những câu thơ chỉ gợi ko tả cũng đủ sức vẽ lên 1 bức tranh Tây Tiến chân thật kì ảo. Cả núi rừng lúc thì nhấp nhoáng trong màn sương lạnh, lúc thì ẩn hiện trong cơn mưa xa khơi, khi lại chìm trong màn sương như thực như mộng. Những nét chấm phá rất mảnh rất nhẹ mà chân thật cho thấy vẻ đẹp tâm hồn tinh tế mẫn cảm của người lính bất chấp hiện thực thảm khốc của chiến tranh, người lính Tây Tiến vẫn mở lòng cảm nhận nâng niu những nét đẹp riêng của núi rừng. Đằng sau những câu thơ giàu chất nhạc, chất họa là tấm lòng Quang Dũng gắn bó mến thương khẩn thiết với cuộc sống con người miền Tây.
Thiên nhiên trong cái nhìn của người chiến sĩ Tây Tiến giống như 1 tác phẩm hội hoạ hoàn hảo. Những nét vẽ táo tợn khoẻ khoắn, tiếng nói gân guốc ở đoạn đầu lúc phác hoạ núi cao rừng thẳm dữ dội liên kết với những nét vẽ thật nhẹ nhõm, tiếng nói mềm mại, nhịp thơ êm đềm thơ mộng lúc tả cảnh sông nước miền Tây. Và trên hết, tự nhiên Tây Bắc chính là phông nền để người lính Tây Tiến hiện lên như những người người hùng phi thường của sử thi thời chống Pháp. Đấy chính là cái tài giỏi của ngòi bút Quang Dũng.
6 mươi 6 5 đã trôi qua, bài thơ Tây Tiến của thi sĩ Quang Dũng đã vượt qua sự thách thức hà khắc của thời kì nhưng mà đứng vững, đi vào lòng người vì những rung động, của tác giả ko chỉ về đoàn quân Tây Tiến nhưng mà còn về bức tranh tự nhiên tuyệt đẹp – vẻ đẹp hùng vĩ, hoang vu và thơ mộng của 1 miền Non sông. Bạn đọc càng ngày càng có vốn văn hoá sâu rộng, tâm hồn càng ngày càng tinh tế, nhiều chủng loại hơn ắt là sẽ càng cảm và yêu quý Tây Tiến.
3. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 2
Thế giới được kiến lập chẳng hề 1 lần mà mỗi lần người nghệ sĩ hiện ra là 1 lần toàn cầu được kiến lập. Cỏ cây hoa lá vẫn ở đấy, vẫn là cuộc sống thường nhật bao quanh ta mà sao lúc vào những trang thơ, áng văn lại phát triển thành đẹp tới lạ kỳ! Hình ảnh tự nhiên vùng Tây Bắc luôn làm chúng ta bất thần như thế qua từng câu chữ của “Tây Tiến”.
Quang Dũng thật hay viết và cũng viết thật hay về nỗi nhớ – nỗi nhớ dấy lên từ những nẻo đường tha phương, nẻo đường cách mệnh và kháng chiến, hướng về “cố quận”, về “Xứ Đoài mây trắng lắm”, về 1 “ngọn Ba Vì mờ xa” và cả cái tên thân yêu “Tây Tiến”. Bài thơ được viết 5 1948, tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ nồng thắm với Tây Tiến – đơn vị tranh đấu cũ – cũng là nỗi nhớ núi rừng rải về miền Tây Non sông có vẻ tuyệt kì nhưng mà Quang Dũng 1 thời gắn bó. Không khí lãng mạn rất riêng của những ngày đầu kháng chiến, tư thế xả thân đầy hùng dũng, anh dũng của người con Hà Nội hào hoa, đa tình đã được trình bày đậm nét ở từng câu thơ chứa đầy chất nhạc, chất họa, vừa long trọng, cổ xưa, vừa tươi tỉnh, trẻ trung.
Mạch thơ chủ công là sự đan dệt của kỉ niệm, của những sực nhớ triền miên, của những vụt hiện bất thần nhưng mà ở đấy các địa danh có lúc chỉ thoáng 1 dòng tên, có lúc chỉ là 1 điểm đặc sắc nào đấy của kỉ niệm. Còn kỉ niệm bao giờ cũng chan hòa cảnh với người, cùng song hành và đan dệt cả 2 mạch: vừa gian nan vừa thơ mộng:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
pháp hiện thực đã mô tả chân thật hình ảnh đoàn quân dãi dầu mỏi mệt, nhấp nhoáng ẩn hiện trong sương. Và đêm sương đó biến thành “đêm hơi” bập bềnh qua cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Những ngọn đuốc soi đường như những đóa hoa chấp chới, lung linh, huyền hoặc. Sự hà khắc của tự nhiên được cảm nhận 1 cách thật thú vị bởi hình ảnh lãng mạn, hào hoa.
Giống như “Tiến quân ca” và mọi khúc quân hành, trong “Tây Tiến”, ta thấy nổi lên hình tượng những tuyến đường. Con đường được kết bằng những địa danh Việt – Lào, đọc lên trầm bổng như ca hát, lạ lẫm và tiên tiến:
“Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, nghìn thước xuống
Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ “Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳm” có 7 chữ nhưng mà đến 5 chữ là thanh trắc cùng điệp từ “dốc”, các từ láy “khuất khúc, thăm thẳm” đã gợi tả hình ảnh tuyến đường tiến quân với những đèo dốc vòng quanh, gồ ghề, lên cao mãi. Từ láy “hẻo lánh” gợi về cảm giác xa xăm, heo hút. Đặc thù, thi sĩ chẳng hề người sao chép cuộc sống vào trang thơ nhưng mà mỗi chữ đều là sự sục sôi “đãi quặng tìm vàng” (Maiacopxki), để “nhặt nhạnh” trên luống cày đời sống, ủ ấp và gieo lên thành những đóa hoa thơ tuyệt đẹp. Những chữ nhấp nhánh đó vừa khiến người ta bất thần lại vừa gây hứng thú: “cồn mây”. Không phải áng mây phiêu du hay chòm mây phiêu lãng nhưng mà là “cồn mây” mịt mờ nơi cửa cửa ải xa: “mặt đất mây đùn cửa cửa ải xa” (Đỗ Phủ). Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” mới lạ mắt và thú vị làm sao. Tới câu thơ tiếp theo lại được ngắt đột ngột làm đôi, vẽ ra 2 chặng đường tiến quân. Điệp ngữ “nghìn thước” cùng nghệ thuật đối lập “lên cao- xuống” đã gợi tả độ sâu của vực đầy dữ dội, hiểm trở. Thì ra đọc thơ Quang Dũng ko chỉ như ngậm nhạc trong mồm nhưng mà còn như được thưởng tranh. “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc” là vì vậy. Nếu câu thơ trên trắc trở bao lăm thì câu thơ dưới lại mềm mại bất nhiêu, câu thơ trên chông chênh bao lăm thì dưới lại nhẹ nhõm bấy nhiêu, cảnh trên hiểm trở bao lăm thì cảnh bây giờ lại êm ả bấy nhiêu: “Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi”. Tâm hồn an nhàn được trải ra theo những âm bằng suốt cả câu thơ rồi.
Có những lúc, tự nhiên lại hiện lên thật hùng vĩ và dữ dội:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
“Thác gầm thét, cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm gia tăng sự hoang vu, dữ dội, bí ẩn của núi rừng Tây Bắc. “Chiều chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời kì lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Sức mạnh của tự nhiên ngự trị nơi đây chẳng hề chỉ có 1 chiều, 1 đêm nhưng mà là “chiều chiều, đêm đêm”. Nhưng đấy cũng là thời kì của những cuộc tiến quân Tây Tiến. Vì vậy nhưng mà 2 câu thơ mô tả cái thâm u, bí hiểm của rừng núi miền Tây Bắc càng khiến chân dung người chiến sĩ thêm cao mập, mạnh bạo.
Những câu thơ tiếp theo là hình ảnh tự nhiên miền sơn cước tuyệt đẹp:
“Người đi Châu Mộc chiều sương đó
Có thấy hồn lau nẻo bờ bến
Có thấy dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa”
1 từ “chiều sương” thôi nhưng mà gợi được cả thời kì và ko gian. Cổ thi mỗi lúc đề cập chiều, tới sương là 1 nỗi buồn thiên cổ, là nỗi hoài cổ nghìn 5 gợi về:
“Dặm liễu sương sa khách bước dồn”
(Bà Huyện Thanh Quan).
Nhưng câu thơ của Quang Dũng lại cho ta 1 cảm giác rất nhẹ nhõm, bình an. 1 từ “đó” vô danh mà lại hữu ý. Từ “đó” vô danh vì nó gợi đề cập 1 thời kì nào đấy, thỉnh thoảng cả chủ thể cũng chẳng thể xác định được: là “Buổi đó lòng ta nghe ý bạn” (Xuân Diệu), là “Từ đó”, “Mười lăm 5 đó” trong hồi tưởng của Tố Hữu. Nhưng đấy cùng là ngày chẳng thể lẫn vào đâu trong muôn nghìn buổi chiều vô danh khác trong đời: buổi chiều mang tên kỉ niệm, mang theo nỗi nhớ. Nhà thơ chỉ mất 1 ít rõ ràng mà nhận lại rộng lớn những ý nghĩa. Không phải là “cây lau”, “ngọn lau” hay “phận lau” như TS Chu Văn Sơn dùng trong bài tùy bút: “Phận hoa bên lề” nhưng mà là “hồn lau”. Cái “hồn” xưa nhưng mà Bà Huyện Thanh Quan đã viết: “hồn thu thảo” khiến cho câu thơ ko chủ đích tả nhưng mà gợi, ko chủ tâm vẽ nhưng mà khơi. Không thấy được hình dạng của ngọn lau mà có thể cảm thu được vong linh riêng của đại nghìn Tây Bắc. Cảnh theo lời thơ nhưng mà tan ra. 1 chút rõ ràng mất đi nhưng mà thêm rất nhiều thơ mộng. Câu thơ cuối làm xuất hiện bóng vía duyên dáng, uyển chuyển của người con gái Thái giữa cảnh tự nhiên mơ mộng, thanh bình. Hình ảnh “hoa” ko chỉ gợi về hình ảnh xứ sở Tây Bắc nghìn hoa nhưng mà còn là hình ảnh của cái đẹp. “Hoa đu đưa” là đang làm duyên với gió, với nước lúc đã nở trọn đời hoa để buông mình? Hay đấy là hình ảnh ẩn dụ của cái đẹp, của người con gái đang tình tứ nhưng mà bí ẩn làm duyên. Câu thơ có cái duyên của cảnh, duyên dáng của người và phải chăng còn là đôi mắt tình tứ của người ngắm cảnh nữa?
Thiên nhiên còn là nơi bao bọc, mến thương, nơi để trở về của con người:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Câu thơ sử dụng những từ Hán Việt: “áo bào”, “khúc độc hành” khiến cho ko khí phát triển thành long trọng. Những người lính mỏng manh áo vải lúc tranh đấu, tới lúc ngã xuống cũng không thể có 1 tấm chiếu để che mình. Hiện thực là thảm khốc, là đau thương như thế. Nhưng vào trong mà câu thơ Quang Dũng, nó tìm được nét trang nghiêm và sự kính trọng cần có. Những chiếc áo vải tranh đấu thành “áo bào” bởi những người lính đó xứng đáng là những chiến binh, những chiến sĩ kiên trì và đáng kính nhất. 1 từ “áo bào” thôi như sự ghi nhận, trân trọng đối với những con người đã dành cả tuổi thanh xuân vì dân tộc, hy sinh cả cuộc đời vì Non sông và những câu thơ đích thực ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa mập. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy oai nghiêm và long trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.
Phần “vĩ thanh” của “hành” “Tây Tiến” gồm 4 câu muốn tiếp diễn cuộc hành trình của kí ức vượt lên theo dấu chân đoàn quân lừng tiếng:
“Tây Tiến người đi ko hứa ước
Đường lên thăm thẳm 1 chia lìa
Ai lên Tây Tiến mùa xuân đó
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Hai câu trên nhắc lại lời hứa ước của đoàn quân Tây Tiến thuở lên đường: “Chí mập chưa về bàn tay ko”. Hai câu sau vừa là lời tự nhắc nhở vừa là sự duyệt lại của kí ức để đi tới khẳng định: chẳng thể quên những chặng đường đã qua, người dù có đi nơi đâu vẫn gửi hồn về Sầm Nứa. Bởi vì chặng đường đã qua là kỉ niệm, là đồng chí, là sự góp sức, là cuộc đời riêng có cơ hội phát sáng trong cuộc đời chung của dân tộc, cách mệnh.
Thiên nhiên trong thơ “Tây Tiến” có nét đẹp của những bức tranh sơn thủy trong thi ca xưa, trong những khúc ngâm cổ lại có nét gần cận, chân thật của cuộc sống bữa nay, có nét phong vị phóng khoáng nhưng mà hào hoa rất riêng đậm chất “Quang Dũng”. Đặc thù bài thơ còn sử dụng thể loại “Cổ phong trường thiên” (1 thể loại hành) để những tình cảm, xúc cảm ko bị bó buộc nhưng mà có thể trải dài theo đầu ngọn bút, hình ảnh tự nhiên cũng như thế nhưng mà phát triển thành bao la, bất tận. Hình ảnh thơ giản dị, thân thuộc mà lúc được ứng hiện vào nhau trong sự xếp đặt của Quang Dũng lại mang đến hiệu quả ko ngờ. Nếu nói “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” thì “Tây Tiến” là 1 viện dẫn điển hình. Với sự tài giỏi trong cách sử dụng và thông minh từ ngữ, Quang Dũng khiến người đọc như “ngậm nhạc trong mồm”, như thưởng tranh trong chữ. Văn pháp hiện thực đi liền với lãng mạn đã làm nên vẻ đẹp hào hùng, bi hùng cho những câu thơ. Đấy chính là phong vị rất riêng của thơ Quang Dũng: và dung dị, vừa bay bổng, ko mài giũa cầu kì nhưng mà mới lạ tới đáng kinh ngạc!
Thiên nhiên ở đâu cũng đẹp, thơ về trăng-hoa-tuyết-núi-sông thời nào chẳng có. Nhưng sao hình ảnh tự nhiên trong “Tây Tiến” lại làm ta xao xuyến, khắc ghi vậy? Vì nó là cảnh của tình, của người, của 1 thời đại hào hùng và lớn lao…
4. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 3
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”
(Chế Lan Viên)
Trong cuộc đời mỗi người đã từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều biến thành những kỉ niệm những dấu ấn khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã trải đời qua xúc cảm đó. Thiên nhiên miền Tây Bắc đã để lại trong thi sĩ những xúc cảm riêng để rồi bức tranh đó đã được tạc lại đầy hào hùng và thơ mộng trong bài thơ “Tây Tiến”.
“Tây Tiến” được thi sĩ sáng tác cuối 5 1948 tại làng Phù Lưu Chanh lúc Quang Dũng rời Tây Tiến đi làm nhiệm vụ khác. Cả bài thơ là 1 nỗi nhớ dài của những kỉ niệm “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Trong nỗi nhớ “chơi vơi” đó người đọc được khám phá và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bức tranh tự nhiên Tây Bắc.
Nếu người nào tới với Tây Bắc sẽ chẳng thể nào quên vẻ hùng vĩ và dữ dội của núi rừng nơi đây. Vẻ đẹp đó đã được thi sĩ Quang Dũng dựng lại trong những hình ảnh thơ đầy lạ mắt. Trước hết là thế tun hút của thế đèo cao dốc ngược:
“Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, nghìn thước xuống”
Với cách sử dụng điệp từ “dốc” cùng nhịp 4/3 và các láy từ “khuất khúc, thăm thẳm”, Quang Dũng như đang đưa từng nét vẽ cứng rắn và chắc khỏe và hình ảnh của những con dốc nối tiếp nhau đầy gồ ghề hiểm trở và ẩn chứa nhiều bất trắc. Cộng với dốc là những “Ngàn thước lên cao nghìn thước xuống”. Câu thơ được tạo thành từ 2 vế tiểu đối, hình tượng thơ tương hợp hài hòa, cảnh tượng núi rừng được đặc tả: 1 bên thì lên cao chon von, 1 bên xuống sâu thăm thẳm. Không gian thơ được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao tới chiều sâu hút của những dốc núi,chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng. Ba dòng thơ giàu tính tạo hình nhiều thanh trắc đã gợi mở bao hùng vĩ dữ dội của tự nhiên nơi đây. Hiểm nguy của núi rừng còn được đẩy cao qua hình ảnh:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Núi rừng tây Bắc hiện lên với bao u ám, hoang dại với thời kì buổi chiều, về đêm càng nhấn mạnh vẻ hoang vu của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được thi sĩ sử dụng để tô đậm ấn tượng về về 1 vùng núi hoang sơ dữ dội. Cảm nghĩ như người đọc có thể nghe được từng bước chân, từng tiếng hầm hè của chúa sơn lâm, mối dọa nạt với những người chiến sĩ. Không chỉ vậy cái dữ dội, hùng vĩ của tự nhiên Tây Bắc còn được chi tiết qua hình ảnh của con sông Mã:
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nội lực của câu thơ dồn vào động từ “gầm”. chỉ 1 chữ đó thôi cũng đủ thấy cái bi hùng hùng vĩ của con sông đang gầm gào dữ dội, ẩn chứa 1 sức mạnh béo mập.
Thiên nhiên Tây Bắc đã lầm nền cảnh làm nổi trội vẻ hào hùng bi hùng của những người lính trên đường tiến quân phải trải qua biết bao nguy hiểm thách thức tới từ tự nhiên.
Bức tranh tự nhiên Tây Bắc ko chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội nhưng mà còn thơ mộng trữ tình với những đường nét mềm mại:
“Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Không phải hoa nở nhưng mà là “hoa về”, chẳng hề đêm khuya nhưng mà là “đêm hơi”. Bằng cách sử dụng những thanh bằng, câu thơ ko tả nhưng mà chỉ thiên về gợi qua những đường nét ấn tượng đã đánh dấu những nét riêng của cảnh trí nơi này vừa mơ mộng huyền ảo vừa thực vừa hư, như sương như khói. Bao phủ lên tự nhiên Tây Bắc ko chỉ có cái kì ảo của đêm nhưng mà còn có cái êm dịu tươi mát của mưa rừng Tây Bắc:
“Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi”
Đối lập với những câu thơ mô tả sự hùng vĩ dữ dội, ở đây vẻ đẹp của tự nhiên đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn. Câu thơ được dệt bằng đông đảo thanh bằng gợi mở những hình ảnh nếp nhà ẩn hiện trong màn mưa nơi thung lũng Pha Luông. Không gian được đẩy xa,cái nhìn phát triển thành mờ ảo sương khói. Có mưa mà ko lạnh lẽo, hoang vắng nhưng mà toát lên cái bình an, thơ mộng. Làm nên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình cho bức tranh tự nhiên Tây Bắc còn phải kể tới 1 chiều sương trên sông nước Châu Mộc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương đó
Có thấy hồn lau nẻo bờ bến
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa”
Núi cao ko còn trước mắt nhưng mà chỉ là 1 chiều sương với hồn lau, bến lách, dáng người trên con thuyền độc mộc, dáng hoa đu đưa. Ba chữ “chiều sương đó” với đại từ phiếm chỉ, ko xác định, gói trọn cả ko gian thời kì. Âm điệu câu thơ như trùng xuống chậm lại được kéo dãn ra. Cảnh thơ phát triển thành hữu tình với những ý thơ “hồn lau, hoa đu đưa”. “Hoa” ở đây có thể là hình ảnh thực của xứ Tây Bắc nghìn hoa cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ cho người con gái đang soi mình dưới dòng nước lũ. Hồn lau và hồn hoa hài hòa với tâm hồn người lính làm nên hồn thơ rất riêng. 1 chất thơ chất nhạc bàng bạc trong hình ảnh thơ. Những câu thơ phát triển thành thật đẹp vì nó được vẽ nên bởi tâm hồn mẫn cảm tinh tế của những chàng trai Hà Nội trước mảnh đất xứ lạ. Qua đấy vẻ đẹp hào hoa lãng mạn của người lính Tây Tiến được gián tiếp trình bày 1 cách đầy thi vị.
Thiên nhiên trong cái nhìn của người chiến sĩ Tây Tiến giống như 1 tác phẩm hội hoạ hoàn hảo. Những nét vẽ táo tợn khoẻ khoắn, tiếng nói gân guốc ở đoạn đầu lúc phác hoạ núi cao rừng thẳm dữ dội liên kết với những nét vẽ thật nhẹ nhõm, tiếng nói mềm mại, nhịp thơ êm đềm thơ mộng lúc tả cảnh sông nước miền Tây. Và trên hết, tự nhiên Tây Bắc chính là phông nền để người lính Tây Tiến hiện lên như những người người hùng phi thường của sử thi thời chống Pháp. Đấy chính là cái tài giỏi của ngòi bút Quang Dũng.
5. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 4
Mỗi 1 vùng đất nhưng mà con người có dịp đặt chân tới ắt hẳn sẽ nhiều ít để lại trong lòng họ những ấn tượng khó phai. Với Quang Dũng thì Tây Bắc – nơi đoàn binh của ông đã từng sống và hoạt động ko chỉ là 1 miền nhớ dạt dào bởi ở đấy có bóng vía của những người đồng chí thân yêu nhưng mà nó còn để lại trong tâm não thi sĩ những dấu ấn về hình ảnh tự nhiên. Thiên nhiên đó, tuy hoang vu, xa xăm, hùng vĩ và dữ dội mà cũng rất thơ mộng và trữ tình. Những kí ức tươi đẹp về tự nhiên của vùng đất Tây Bắc đầy kỉ niệm của 1 thời lính trẻ sẽ được Quang Dũng trình bày trong những vần thơ của thi phẩm “Tây Tiến”.
Cảm nhận về bức tranh tự nhiên Tây Tiến hay hình tượng người lính trong bài thơ, người đọc trước tiên cần nắm được đôi nét về tác giả cũng như tác phẩm.
Quang Dũng, sinh 5 1922 – mất 5 1988, quê ở Đan Phượng thuộc tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông tên thật là Bùi Đình Diệm và lừng danh với vai trò là 1 thi sĩ với ti tỉ những tác phẩm điển hình cho nền văn chương giang sơn: “Rừng biển quê hương” (1957), “Đường lên Châu Thuận” (1964), “Rừng về xuôi” (1968), “Mây đầu ô” (1986).
Kế bên việc trình bày sự tài giỏi của mình trong nghệ thuật thơ ca, thi sĩ còn cho thấy nhiều năng khiếu khác của bản thân như vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… Cũng giống như biết bao người trẻ trai hợp lí tưởng phụng sự sức mình cho quốc gia, Quang Dũng cũng xung phong vào lực lượng quân nhân giang sơn để rồi biến thành 1 thi sĩ – chiến sĩ gốc Hà Thành hào hoa, lịch thiệp.
Đặc thù, sự sôi nổi, tích cực trong cả việc quân ngũ và sáng tác được trình bày nhất là vào quá trình từ sau Cách mệnh tháng 8. Chính tài năng và những dấu ấn của Quang Dũng trong thơ văn đã làm nên sự thành công trong sự nghiệp sáng tác, giúp ông được vinh danh với giải thưởng Nhà nước về Văn chương nghệ thuật.
Có thể thấy, bức tranh tự nhiên Tây Tiến hiện lên trong tác phẩm mang vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội lại rất diễm kiều và trữ tình. Cảm nhận bức tranh tự nhiên Tây Tiến chính là việc phân tách những nét đẹp đấy về núi rừng tự nhiên Tây Bắc.
Qua những vần thơ nhưng mà Quang Dũng trình bày, bức tranh tự nhiên Tây Tiến được tái tạo với những nét vẽ vừa hùng vĩ, vừa dữ dội. Mỗi 1 địa danh hiện ra trên trang viết lại mang thuộc tính rất đặc biệt.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Bức tranh tự nhiên Tây Tiến còn hiện lên với hình ảnh Sài Khao, Mường Lát với “sương lấp”, “đêm hơi” đã gợi ra sự bất lợi của điều kiện tự nhiên. Phcửa ải sống và làm việc trong địa hình khi nào cũng có sương phủ, hơi lạnh ắt hẳn người lính cũng phải chịu rất nhiều những cực khổ, khó khăn. Động từ “lấp” đã cho thấy sự lấn át con người của màn sương nơi đây cũng như cho thấy được cái gian truân cái giá lạnh nơi núi rừng.
Những cực khổ, khó khăn đó cứ kéo dài từ ngày này qua tháng đã khiến cho những khó nhọc nhưng mà “đoàn quân mỏi” thêm phần nặng nề, gian truân hơn nữa. Không chỉ gặp vấn đề điều kiện thời tiết nhưng mà chặng đường tiến quân của người lính Tây Tiến cũng rất trắc trở, gồ ghề:
“Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, nghìn thước xuống
Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi.”
Câu thơ có sự hiện ra của điệp từ “dốc” đã hình thành cảm giác trúc trắc, vời vợi của chặng đường phía trước nhưng mà những người chiến sĩ phải vượt qua. Không những vậy, những gian truân, trở lực đó lại như được nối tiếp lúc địa hình được mô tả với các đặc tính “khuất khúc”, “thăm thẳm”, “hẻo lánh”. Đây là những từ láy tượng hình có kết cấu nhiều thanh trắc đã đặc tả sự hiểm trở của bước đường tiến quân.
Con đường đó ko chỉ vừa cao vừa tun hút nhưng mà còn hiu hắt và tĩnh mịch tới cực kỳ. Từ “nghìn thước” được lặp lại 2 lần cộng với cặp từ tương phản “lên” – “xuống”. Cộng với nhịp thơ 4/3 đã làm cho độ cao, độ sâu của địa hình thêm đậm nét. Bức tranh tự nhiên Tây Tiến còn hiện lên qua hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” vừa gợi được độ cao của con dốc vừa gợi được cái nghịch ngợm trẻ trung của người lính Tây Tiến.
Đứng trước độ cao của con dốc phóng tầm nhìn chẳng thấy gì ngoài mây trắng che phủ mà người lính ko cảm thấy khiếp sợ cũng ko thấy mỏi mệt nhưng mà họ vẫn có thể nhìn tự nhiên bằng con mắt yêu đời. Người lính tiến quân vừa phải trải qua những đoạn đường trúc trắc, đứt gãy nhưng mà còn đương đầu với sự nguy hiểm, rợn ngợp của núi rừng và thú dữ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.
Sự hùng mĩ nhưng mà đầy dữ dội của bức tranh tự nhiên Tây Tiến còn trình bày qua sự rình rập của cọp dữ, tiếng gầm thét của thác cao như muốn góp thêm phần mình vào những trở lực để thách thức lòng can đảm của người lính. Nhưng dưới sự dữ dội có ẩn chứa những bất trắc như thế, người lính dù anh dũng tới như thế nào thì cũng có khi họ đã phát triển thành đuối sức rồi “gục lên súng mũ quên mất đời”. Hình ảnh nhân hóa liên kết với vòng thời kì “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy sự gian truân lặp đi lặp lại như 1 điều thân thuộc với người lính tây tiến. Và góp phần tạo được giai điệu cho dòng thơ, diễn đạt được cái âm thanh của núi rừng ngút ngàn.
Thế mà, lúc chứng kiến sự ra đi của những người người hùng áo lính, sông núi Tây Bắc trong phút tống biệt các anh dù vẫn hùng thiêng, dữ dội mà lại gây 1 sự xúc động mập lao trong lòng người vì tiếng thét gầm vang danh:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Có thể thấy sự ra đi của người chiến sĩ đã có sức rung động mập lao tới tự nhiên tạo vật. Rõ ràng, trong sự ghi nhớ của những người lính, Tây Bắc là vùng đất có tự nhiên rất mực kì vĩ, hoa lệ và gắn liền với từng chặng đường tiến quân của các anh. Những gì các anh trải đời qua, những điều các anh từng nỗ lực đều in dấu lên các sườn dốc, nẻo đường của vùng đất đó….
Thế nên, có nhẽ đối với các anh, bức tranh tự nhiên Tây Tiến nơi đây dù ko ít lần thách thức lòng can đảm, sự nhẫn nại bởi sự hùng vĩ, dữ dội mà có nhẽ nó cũng đỡ biến thành trợ thủ đi cùng cùng người chiến sĩ trong công việc tranh đấu. Do vậy, lúc 1 trong số những “người bạn” của mình rủi ro phải hy sinh thì vạn vật cũng thương tiếc khôn cùng.
Viết “Tây Tiến”, Quang Dũng cùng lúc đã phác họa nên trước mắt người đọc bức tranh về tự nhiên của vùng đất này. Trong bức tranh đó, có những đường nét mạnh bạo, dữ dội như đã nói ở phần trên mà cũng có lúc, tự nhiên hiện ra với vẻ đẹp dịu dàng, trữ tình:
“Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi”
Dòng thơ như vẽ ra trước mắt người đọc 1 quang cảnh rộng lớn bao la của núi rừng. Không gian đó như bị bao vây bởi cơn mưa ngút trời. Nhưng nét lạ mắt ở đây là cơn mưa đó ko gợi lên 1 ko khí âm u mỏi mệt hay nặng nề hoang vắng nhưng mà trái lại là 1 cảm giác thơ mộng, ấm áp. Bởi sự hiện ra của hình ảnh “nhà”.
Mái nhà hiện lên trong tầm mắt của người chiến sĩ lúc anh phóng tầm mắt ra khơi. Mái nhà đó gợi biết bao lăm tình cảm. Đấy chính là điểm tựa là động lực để người lính Tây Tiến tranh đấu – tranh đấu để bảo vệ những mái nhà hạnh phúc đầm ấm. Đại từ “người nào” càng làm cho hình ảnh ngôi nhà như chìm sâu vào ảo mộng. Câu thơ toàn thanh bằng như 1 hơi thở nhẹ nhõm của người lính. Chỉ bấy nhiêu đấy thôi cũng đã đủ tiếp sức cho người lính trên bước đường tiến quân mỏi mệt này.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Ví như trước đấy, những câu thơ gợi lên sự trắc trở, gồ ghề của chặng đường tiến quân thì những câu thơ này đã làm tự nhiên Tây Bắc như thơ mộng hơn lúc nó hiện ra cộng với hình ảnh bữa cơm ấm nồng ngun ngút khói, nếp xôi thơm nức cả thôn ấp.
Chính những hình ảnh đấy đã tạo ra ko gian thật gần cận, thân thuộc của cuộc sống giữa tình thân với những bữa cơm ấm cúng nhưng mà mỗi người lính Tây Tiến đã từng có nơi quê nhà. Đặc thù, lúc đưa tầm mắt ra xa để thấy nhấp nhoáng bóng vía “nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” thì người chiến sĩ như tìm được cho mình điểm tựa để được vỗ về, xoa dịu sau biết bao những mệt mỏi, gian khó đã trải qua.
Không gian, cảnh vật trong bức tranh tự nhiên Tây Tiến bỗng chốc cute tới cực kỳ, thậm chí có thể giúp những người lính trẻ biểu thị nét hóm hỉnh, tếu táo đùa vui: núi cao “hẻo lánh cồn mây” vời vợi là thế, khiến các anh khó nhọc là thế mà không phải đã tạo ra hình ảnh “súng ngửi trời” rất lôi cuốn đấy sao?
Chính sự sáng sủa, vui vẻ, xem thường những trở lực, gian truân trong hành trình tiến quân đã khiến người lính Tây Tiến như đứng ở vị thế làm chủ tự nhiên. Bước đường tiến quân có nhẽ thành ra nhưng mà cũng vơi dần mệt nhọc, khó nhọc.
Bức tranh tự nhiên Tây Tiến mang đặc biệt của vùng núi rừng hùng vĩ, hoa lệ, cũng có lúc trữ tình, nhẹ nhõm và đã có khi như chất chứa biết bao nỗi niềm, tâm tư của người lính với sự thơ mộng khiến con người quyến luyến, vương vấn:
“Người đi Châu Mộc chiều sương đó
Có thấy hồn lau nẻo bờ bến
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa”
4 câu thơ vừa cho thấy nét thơ, vừa trình bày chất họa của 1 miền sông nước Tây Bắc nhưng mà cảm giác gợi lên trong lòng người những cảm giác bát ngát, kì ảo vì được chứng kiến 1 xứ sở tuyệt đẹp như trong cổ tích thuở xưa. Ba từ “chiều sương đó” đã gợi lên ko gian rộng lớn, bao la và gợi lên 1 thời điểm đã qua. Trong ko gian và thời kì đó, cảnh vật như cũng có vong linh riêng của nó (“hồn lau”) và con người thì hiện ra thật duyên dáng trên chiếc “độc mộc” xinh xinh.
Thêm vào đấy, hình ảnh dòng nước có hoa trôi rất tình tứ trong hiện trạng “đu đưa” như làm dịu đi thuộc tính mạnh bạo, ồ ạt củ dòng nước lũ đổ về. Chỉ với vài nét chấm phá đơn sơ, cảnh vật và con người đã ẩn hiện trong màn sương của núi rừng Tây Bắc.
Nhà thơ ko chỉ nỗ lực làm hiện lên trước mắt người đọc cái vẻ kì ảo của tự nhiên, sự hấp dẫn của con người nhưng mà còn hình thành nỗi ám ảnh trong lòng người đọc bởi cái hồn của cảnh đó và người đó. Cách lặp từ linh động “có thấy”, “có nhớ” cũng góp phần khiến cho nỗi nhớ bát ngát và cảm giác ấn tượng thêm thâm thúy trong lòng người. Cảm nhận về bức tranh tự nhiên Tây Bắc ta còn thấy vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của mảnh đất nơi đây hình như được khảm sâu và văng vẳng vào lòng người bằng những câu thơ với nhiều thanh bằng như an ủi đi những gian lao, mệt nhọc, khó nhọc.
Về nội dung, bài thơ “Tây Tiến” đã cho người đọc tưởng tượng về 1 bức tranh tuyệt đẹp giữa ý chí, lòng cố gắng của những người chiến sĩ Tây Tiến và sự hùng vĩ, trữ tình của tự nhiên nơi đây. Những ấn tượng về bức tranh tự nhiên Tây Tiến và hình ảnh con người được hình thành trong những vần thơ của Quang Dũng đã cho thấy sự thành công của tác giả về bình diện nghệ thuật.
Đấy là việc thi sĩ đã sử dụng ngòi bút tả chân, chẳng hề tránh né những mất mát, hy sinh cùng văn pháp lãng mạn, bay bổng. Kế bên đấy, sự linh động trong giọng thơ (lúc trang trong, đau thương, khi nhẹ nhõm, bay bổng) cộng với nhiều phép tu từ rực rỡ (đặc trưng là phép nói giảm nói tránh) đã hình thành dấu ấn khó phai lúc đề cập thi phẩm “Tây Tiến”.
Tóm lại, bằng những nét vẽ vừa gân guốc, cứng cỏi mà cũng rất thanh thoả, nhẹ nhõm, Quang Dũng đã gợi nên 1 bức tranh tự nhiên vừa hùng vĩ, mĩ lệ mà lại cực kỳ thơ mộng. Thông qua bức tranh tự nhiên Tây Tiến đó, hình như thi sĩ cũng đã bí ẩn gửi gắm sự ca ngợi của mình về vẻ đẹp tâm hồn của người lính: trong gian truân, gian nan vẫn luôn sáng sủa, lãng mạn, hào hoa và chan chứa niềm tin vào cách mệnh.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin có lợi khác trên phân mục Văn chương – Tài liệu của tasscare.vn.
Xem chi tiết bài viết
Top 5 mẫu phân tách bức tranh tự nhiên Tây tiến hay nhất
#Top #mẫu #phân #tích #bức #tranh #thiên #nhiên #Tây #tiến #hay #nhất
Top 5 mẫu phân tách bức tranh tự nhiên Tây tiến hay nhấtDàn ý bức tranh tự nhiên trong Tây tiến (adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Bức tranh tự nhiên trong Tây tiến1. Dàn ý phân tách bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến2. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 13. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 24. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 35. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 4Bức tranh tự nhiên trong bài thơ Tây Tiến được tác giả Quang Dũng khắc họa nên cực kỳ hùng vĩ và hoa lệ. Sau đây là dàn ý bức tranh tự nhiên trong Tây tiến và bài văn mẫu phân tách vẻ đẹp tự nhiên tronhg bài thơ Tây tiến hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo.Top 5 bài phân tách đoạn 3 Tây Tiến hay chọn lọc1. Dàn ý phân tách bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})I. Mở bài:- Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm+ Quang Dũng là 1 nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ở bình diện thơ ca, Quang Dũng là 1 thi sĩ mang hồn thơ hào phóng, hồn hậu, lãng mạn và tài giỏi – đặc trưng lúc ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài (Sơn Tây) của mình.+ “Tây Tiến” là bài thơ trình bày tập hợp nhất những nét đặc biệt trong cá tính nghệ thuật của Quang Dũng. Bài thơ được coi là 1 tuyệt tác về đề tài người lính giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong bài thơ, với cảm hứng lãng mạn bay bổng nhưng mà vẫn đậm chất hiện thực, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh tự nhiên của núi rừng miền Tây: vừa hùng vĩ, dữ dội vừa mĩ lệ, nên thơ.II. Thân bài:- Gicửa ải thích, khái lược về vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội: bao la, gây được ấn tượng mạnh bạo, và cả đáng sợ; vẻ đẹp nên thơ, mỹ lệ: hấp dẫn, kì ảo.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})- Phân tích các căn cứ để làm rõ vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội và lãng mạn, nên thơ của tự nhiên núi rừng Tây Bắc trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.- Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của tự nhiên núi rừng Tây Bắc chủ công được trình bày trong các câu thơ tả sương núi chi chít, dối núi hiểm trở và sự hoang vu, bí ẩn của núi rừng. Chi tiết là:+ “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi“: Màn sương ở Sài Khao bát ngát, chi chít có thể che kín cả 1 đoàn quân, trùm phủ núi rừng.+ “Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời – Ngàn thước lên cao nghìn thước xuống“: Dốc núi vòng quanh, trập trùng như bất tận, 1 bên vút lên cao vút trời, 1 bên vụt đổ xuống vực sâu.+ “Chiều chiều oai linh thác gầm thét – Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người“: Núi rừng miền Tây hoang vu, bí ẩn bởi tiếng thác oai linh, tiếng cọp hú gầm. Sức mạnh tự nhiên kinh khủng đó đã ngự trị nơi núi rừng miền Tây từ bao đời.- Vẻ đẹp lãng mạn, nên thơ của tự nhiên núi rừng miền Tây chủ công được trình bày trong các câu thơ mô tả hoa, mưa rừng, chiều sương,… Chi tiết là:+ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi“: Hoa rừng tỏa hương, vấn vương trong đêm sương.+ “Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi“: Thung lũng mịt mờ, nhạt nhòa trong mưa.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})“Người đi Châu Mộc chiều sương đó – Có thấy hồn lau nẻo bờ bến – … Trôi dòng nước lũ hoa đu đưa“: 1 chiều sương với hoa lau xao xác trắng xóa núi rừng; sắc trắng của hoa lau trong chiều sương nhạt nhòa, mờ ảo, cái phất phơ của nghìn lau trong xạc xào gió núi…đã làm cho rừng lau như phát triển thành có vong linh. Những bông hoa rừng như những cô gái đang soi mình làm duyên trên sông nước chòng chành, sóng sánh.Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp vừa hùng vĩ dữ dội vừa lãng mạn, nên thơ của tự nhiên núi rừng Tây Bắc bằng văn pháp hiện thực liên kết văn pháp lãng mạn.Khắc họa tự nhiên Tây Bắc, thi sĩ ko chỉ vẽ nên trước mắt người đọc 1 bức tranh về núi rừng vừa hiểm trở, dưa dội vừa lãng mạn, trữ tình tới nên thơ nhưng mà còn gián tiếp cho thấy hình tượng người lính Tây Tiến với sức mạnh hào hùng, khí thế oanh liệt và vẻ đẹp hào hoa, hùng dũng, lãng mạn. Thiên niên chính là cái nền cảnh để thi sĩ làm nổi trội lên hình ảnh của con người.III. Kết bài:Vẻ đẹp vừa hùng vĩ, dữ dội vừa lãng mạn, trữ tình của tự nhiên núi rừng miền Tây đó là 1 trong những nét làm nên trị giá của bài thơ và trình bày cá tính nghệ thuật lạ mắt của bậc a ma tơ Quang Dũng.2. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 1“Đường lên Tây Bắc vút xa mờ. Đường lên Tây Bắc mây trắng bập bềnh như mơ… Gặp lại dấu chân ông cha, gặp lại 9 5 gian nan”. Những nhạc điệu trong bài hát Hành binh lên Tây Bắc của nhạc sĩ Nguyễn An Thuyên đã hơn 1 lần đưa ta ngược về thời kì, vượt qua khoảng cách ko gian về với núi rừng Tây Bắc của 1 thời đạn lửa. Giữa rất nhiều tác phẩm văn học khái quát và văn chương thời gian kháng chiến chống Pháp nói riêng in đậm dấu ấn vùng cao Tây Bắc, Tây Tiến của Quang Dũng là bài thơ có địa điểm đặc trưng. Đọc Tây Tiến người ta ko chỉ thấy hiện lên lừng lững bức tượng đài người lính nhưng mà còn ấn tượng thâm thúy về bức tranh tự nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang vu mà ko kém phần thơ mộng, lãng mạn.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Tây Tiến (1948) là nét son hấp dẫn nhất trong đời thơ Quang Dũng. Bài thơ xuất hiện như 1 sự hoà điệu xinh tươi giữa thơ – nhạc – hoạ.Cả Tây Tiến là 1 nỗi nhớ khôn nguôi của thi sĩ về 1 vùng đất 1 thời chiến trận. Vậy nên, lúc đề cập địa danh này, ta nhận thấy những kí ức của dĩ vãng hiện về thật tươi nguyên, nó chen lấn thực tại, hình thành độ nhoè giữa 2 ko gian: ko gian hiện nay và ko gian hồi ức. Cho nên, dù xa lạ, qua hồn thơ và nỗi nhớ Quang Dũng, các địa danh đó đánh chiếm cõi nhở người đọc, giúp họ yên tâm cùng “Quang Dũng -trôi’ về 1 vùng đất xinh tươi, dữ dội và mơ mộng, đượm đà.Bao trùm nền cảnh Tây Bắc là vẻ hùng vĩ dữ dội, hiểm trở. Hình ảnh đoàn quân Tây Tiến như mờ ảo, ẩn hiện trong sương khói. Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Những bản mường lạ lẫm được đề cập với bao kỉ niệm mến thương.Quang Dũng là 1 trong những thi sĩ đã dùng thơ để gợi nhớ trong hồn người những địa danh, những tên làng, tên bản, tên núi, tên sông củaquê hương quốc gia vối bao ý vị đặm đà. Ông ko trao nỗi nhớ của mình những địa chỉ “vu vơ”, ông điểm danh từng tên chi tiết: sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch… và sự mặt của các địa danh này tức khắc gợi ra ý niệm về sự ngăn cách, hoang vu. Những địa danh đã gắn bó vơi đầy với tác giả và đi sâu vào tiềm thức thi sĩ. Đoàn quân Tây Tiến tiến quân trong biển sương mù chi chít, trong màn đêm hơi núi, gió rét căm căm của chốn “thâm sơn cùng cốc”. Sương lấp đường đi, lấp dáng người trong mịt mờ. Những nẻo đường tiến quân tranh đấu như kéo dài bất tận:Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, nghìn thước xuốngBa câu thơ là 1 minh chứng điển hình cho quan niệm “thi trung hữu hoạ”, bởi những hình ảnh trong bức tranh thơ này được vẽ lên bằng những đường nét có sức nói chung mập và mang tính đặc biệt cao. Nó đã gây được ấn tượng mạnh bạo và gợi ra trong tâm não người đọc vẻ đẹp trập trùng, hoang sơ, hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Cao hơn những màn sương che giấu bóng vía đoàn quân đang vượt dốc, vây bọc lấy những bản làng trong hơi lạnh là những đỉnh núi gồ ghề, hiểm trở cao nghìn thước có mây phủ kín 4 mùa. Lên đến đỉnh, đầu người lính và mũi súng tưởng như chạm vào trời cao: “súng ngửi trời’(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Dưới chân họ lại là những vực sâu thăm thẳm nghìn thước. Câu thơ như được ngắt làm đôi, vẽ ra 2 chặng của tuyến đường tiến quân, diễn đạt rất đạt sự cheo leo, chông chênh của đèo và dốc giữa lưng chừng núi. Với câu thơ có nhịp độ bẻ đôi đột ngột trong sự đối lập tương phản, người đọc có thể tưởng tượng dốc lên cao rồi đổ xuống hầu hết thẳng đứng. Nhìn lên cao thì tun hút ko cùng, nhìn xuống thì sâu thăm thẳm tới chóng mặt. Những hình ảnh thơ giàu chất nhạc, chất hoạ đã gợi tả 1 Tây Bắchùng vĩ dữ dội hiểm trở để gợi nhớ 1 thời Tây Tiến đầy gian nan, gian nan tới nỗi:“Anh bạn dãi dầu ko bước nữaGục lên súng mũ quên mất đời!”.Gian khổ tưởng như đã vượt lên trên giới hạn chịu đựng của con người. Những tên địa danh ko gần cận dân dã như thôn Đoài thôn Đông trong thơ Nguyễn Bính nhưng mà cực kỳ lạ lẫm với người đọc mà chính những địa danh đó đã liên tục vẽ lên tuyến đường Tây Tiến 1 thời như khắc như tạc vào tâm não người đọc núi non gồ ghề hiểm trở miền Tây Bắc.Miền Tây còn là nơi ngự trị của vẻ u ám, hoang dại, là nơi đầy những thách thức gớm ghê đặt ra cho con người. Nó ko chỉ được mở ra theo chiều ko gian với nhưng mà còn được khám phá ở chiều thời kì với những dọa nạt kinh khủng xoành xoạch rình rập;Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người“Chiều chiều” và “đêm đêm” – những khoảng thời kì gợi nỗi buồn trong lòng người thì chỉ nghe thấy tiếng cọp trêu người và tiếng thác sông Mã gầm thét. Điều đấy càng gợi sự hoang vu u ám của núi rừng Tây Bắc. Nghệ thuật phối thanh trắc: “Mường Hịch – cọp trêu người” 2 dấu nặng liền kề gợi cái nặng nề như bước chân thú dữ đang rình rập dọa nạt con người. Rừng già miền Tây Bắc hoang vu u ám bí hiểm luôn là thách thức với người chiến sĩ trên tuyến đường tiến quân.Vượt qua vẻ hùng vĩ dữ dội, vượt lên trên sự hoang vu hà khắc của rừng núi Tây Bắc, người đại đội trưởng binh đoàn Tây Tiến lúc xưa nhớ về chốn cũ còn ghi lòng tạc dạ trong mình về 1 miền Tây thơ mộng và lãng mạn:Mường Lát hoa về trong đêm hơiHình ảnh nhân hoá “hoa về” gợi nhiều liên tưởng: có thể là hoa nở trong đêm sương, có thể “hoa” là ngọn đuốc trong đêm tiến quân, cũng cỏ thê hiêu là bóng vía người đẹp… “Đêm hơi” tái tạo ko gian núi rừng kì ảo thơ mộng trong màn sương mong manh bập bềnh. Câu thơ phối nhiều thanh bằng gợi cảm giác như sương như hương, như hoa, như hôn người. Hình ảnh hoa về là hình ảnh đa nghĩa, là điểm sáng làm rõ vẻ đẹp tâm hồn người lính, xua đi những mỏi mệt trên tuyến đường tiến quân.Giữa mạch thơ khắc hoạ tập hợp cái dữ dội tột bực của tự nhiên miền Tây, Quang Dũng đã thả 1 câu thơ toàn thanh bằng với giai điệu lâng lâng, bát ngát trình bày ánh mắt nhìn cực kỳ bay bổng của người lính Tây Tiến:(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi“Mưa xa khơi” là hình ảnh tả chân những cơn mưa xối xả nơi núi rừng Tây Bắc bằng cách lấy mưa biển tả mưa rừng. Câu thơ còn như tiếng thở phào nhẹ nhàng của người lính sau lúc vượt qua bao đèo cao suối sâu, tạm ngừng chân bên 1 dốc núi, phóng tầm mắt ra xa, qua 1 ko gian mịt mờ sương rừng mưa núi thấy nhấp nhoáng những ngôi nhà như những cánh buồm bập bềnh trên biển khơi, trong 1 “đêm hơi” mơ hồ kì ảo… gợi 1 niềm ấm cúng thân tình trong lòng người. Câu thơ như 1 gam màu lạnh giữa những gam màu hot làm dịu lại cả đoạn thơ.Những địa danh “Mường Lát”, “Pha Luông” đọc lên nghe êm dịu thích hợp với nét thơ mộng của cảnh ko gian được mỏ rộng ra mênh mông vừa cao rộng vừa xa vừa mờ như 1 bức tranh thuỷ mặc. Thiên nhiên Tây Bắc là vậy, hùng vĩ hiểm trở mà cũng rất mực trữ tình lãng mạn, để lại dấu ấn khó phai trong ký ức người lính Tây Tiến.4 câu sau của đoạn thơ thứ 2 về bức tranh sông nước miền Tây là nét vẽ hoàn chỉnh về tự nhiên Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng:Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưaCảnh vật Tây Bắc trong 4 câu thơ này cũng vẫn được dệt nên bằng xúc cảm hồi ức, là sự nối tiếp của cái nỗi “nhớ chơi vơi” ở phần đầu bài thơ, là sự tiếp theo của nỗi nhớ “hội hoa chúc” ở 4 câu trước, cảnh Tây Bắc ở đây là 1 buổi chiều Châu Mộc được giăng mắc bởi 1 màn sương mờ, có dòng sông đôi bờ thầm lặng, hoang dại như đôi bờ tiền sử, như 1 miền cổ tích. 1 lần nữa, hình ảnh sương khói lại hiện ra biến thành ko gian đặc biệt về Tây Tiến trong nỗi nhớ, biến thành thời kì của hoài niệm xinh tươi, mờ ảo của sương khói miền Tây Bắc. Cũng giống như Chế Lan Viên lúc nhớ về Tây Bắc:Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủNơi nao qua lòng lại chẳng mến thươngNgười và cảnh hòa quyện với nhau hình thành 1 vẻ đẹp vừa có hồn vừa man mác, bóng gió. Bởi nhớ cảnh núi rừng miền Tây trong buổi chiều sương mà là nhớ đến hồn lau. Hình ảnh hồn lau đầy thơ mộng là 1 nét đẹp của chiều sương Châu Mộc. Mùa xuân hoa lau nở tím rừng, sang thu hoa lau nở trắng rừng. Hoa lau, cờ lau phơ phất, lá lau kêu xạc xào trong gió thu. Câu thơ “Cỏ thấy hồn lau nẻo bờ bến” đúng là câu thơ mang đậm chất tâm hồn thi nhân” (GS. Phan Cự Đệ). Rồi, trên cái nền của dòng sông đậm sắc màu cổ tích và huyền thoại đó, nổi trội lên hình dạng tha thướt, uyển chuyển của cô gái vùng cao trên chiếc thuyền “độc mộc” cùng cái tình tứ “đu đưa” làm duyên của những bông hoa bên dòng nước lũ.Những câu thơ chỉ gợi ko tả cũng đủ sức vẽ lên 1 bức tranh Tây Tiến chân thật kì ảo. Cả núi rừng lúc thì nhấp nhoáng trong màn sương lạnh, lúc thì ẩn hiện trong cơn mưa xa khơi, khi lại chìm trong màn sương như thực như mộng. Những nét chấm phá rất mảnh rất nhẹ mà chân thật cho thấy vẻ đẹp tâm hồn tinh tế mẫn cảm của người lính bất chấp hiện thực thảm khốc của chiến tranh, người lính Tây Tiến vẫn mở lòng cảm nhận nâng niu những nét đẹp riêng của núi rừng. Đằng sau những câu thơ giàu chất nhạc, chất họa là tấm lòng Quang Dũng gắn bó mến thương khẩn thiết với cuộc sống con người miền Tây.Thiên nhiên trong cái nhìn của người chiến sĩ Tây Tiến giống như 1 tác phẩm hội hoạ hoàn hảo. Những nét vẽ táo tợn khoẻ khoắn, tiếng nói gân guốc ở đoạn đầu lúc phác hoạ núi cao rừng thẳm dữ dội liên kết với những nét vẽ thật nhẹ nhõm, tiếng nói mềm mại, nhịp thơ êm đềm thơ mộng lúc tả cảnh sông nước miền Tây. Và trên hết, tự nhiên Tây Bắc chính là phông nền để người lính Tây Tiến hiện lên như những người người hùng phi thường của sử thi thời chống Pháp. Đấy chính là cái tài giỏi của ngòi bút Quang Dũng.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})6 mươi 6 5 đã trôi qua, bài thơ Tây Tiến của thi sĩ Quang Dũng đã vượt qua sự thách thức hà khắc của thời kì nhưng mà đứng vững, đi vào lòng người vì những rung động, của tác giả ko chỉ về đoàn quân Tây Tiến nhưng mà còn về bức tranh tự nhiên tuyệt đẹp – vẻ đẹp hùng vĩ, hoang vu và thơ mộng của 1 miền Non sông. Bạn đọc càng ngày càng có vốn văn hoá sâu rộng, tâm hồn càng ngày càng tinh tế, nhiều chủng loại hơn ắt là sẽ càng cảm và yêu quý Tây Tiến.3. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 2Thế giới được kiến lập chẳng hề 1 lần mà mỗi lần người nghệ sĩ hiện ra là 1 lần toàn cầu được kiến lập. Cỏ cây hoa lá vẫn ở đấy, vẫn là cuộc sống thường nhật bao quanh ta mà sao lúc vào những trang thơ, áng văn lại phát triển thành đẹp tới lạ kỳ! Hình ảnh tự nhiên vùng Tây Bắc luôn làm chúng ta bất thần như thế qua từng câu chữ của “Tây Tiến”.Quang Dũng thật hay viết và cũng viết thật hay về nỗi nhớ – nỗi nhớ dấy lên từ những nẻo đường tha phương, nẻo đường cách mệnh và kháng chiến, hướng về “cố quận”, về “Xứ Đoài mây trắng lắm”, về 1 “ngọn Ba Vì mờ xa” và cả cái tên thân yêu “Tây Tiến”. Bài thơ được viết 5 1948, tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ nồng thắm với Tây Tiến – đơn vị tranh đấu cũ – cũng là nỗi nhớ núi rừng rải về miền Tây Non sông có vẻ tuyệt kì nhưng mà Quang Dũng 1 thời gắn bó. Không khí lãng mạn rất riêng của những ngày đầu kháng chiến, tư thế xả thân đầy hùng dũng, anh dũng của người con Hà Nội hào hoa, đa tình đã được trình bày đậm nét ở từng câu thơ chứa đầy chất nhạc, chất họa, vừa long trọng, cổ xưa, vừa tươi tỉnh, trẻ trung.Mạch thơ chủ công là sự đan dệt của kỉ niệm, của những sực nhớ triền miên, của những vụt hiện bất thần nhưng mà ở đấy các địa danh có lúc chỉ thoáng 1 dòng tên, có lúc chỉ là 1 điểm đặc sắc nào đấy của kỉ niệm. Còn kỉ niệm bao giờ cũng chan hòa cảnh với người, cùng song hành và đan dệt cả 2 mạch: vừa gian nan vừa thơ mộng:“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi”pháp hiện thực đã mô tả chân thật hình ảnh đoàn quân dãi dầu mỏi mệt, nhấp nhoáng ẩn hiện trong sương. Và đêm sương đó biến thành “đêm hơi” bập bềnh qua cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Những ngọn đuốc soi đường như những đóa hoa chấp chới, lung linh, huyền hoặc. Sự hà khắc của tự nhiên được cảm nhận 1 cách thật thú vị bởi hình ảnh lãng mạn, hào hoa.Giống như “Tiến quân ca” và mọi khúc quân hành, trong “Tây Tiến”, ta thấy nổi lên hình tượng những tuyến đường. Con đường được kết bằng những địa danh Việt – Lào, đọc lên trầm bổng như ca hát, lạ lẫm và tiên tiến:“Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, nghìn thước xuốngNhà người nào Pha Luông mưa xa khơi”Câu thơ “Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳm” có 7 chữ nhưng mà đến 5 chữ là thanh trắc cùng điệp từ “dốc”, các từ láy “khuất khúc, thăm thẳm” đã gợi tả hình ảnh tuyến đường tiến quân với những đèo dốc vòng quanh, gồ ghề, lên cao mãi. Từ láy “hẻo lánh” gợi về cảm giác xa xăm, heo hút. Đặc thù, thi sĩ chẳng hề người sao chép cuộc sống vào trang thơ nhưng mà mỗi chữ đều là sự sục sôi “đãi quặng tìm vàng” (Maiacopxki), để “nhặt nhạnh” trên luống cày đời sống, ủ ấp và gieo lên thành những đóa hoa thơ tuyệt đẹp. Những chữ nhấp nhánh đó vừa khiến người ta bất thần lại vừa gây hứng thú: “cồn mây”. Không phải áng mây phiêu du hay chòm mây phiêu lãng nhưng mà là “cồn mây” mịt mờ nơi cửa cửa ải xa: “mặt đất mây đùn cửa cửa ải xa” (Đỗ Phủ). Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” mới lạ mắt và thú vị làm sao. Tới câu thơ tiếp theo lại được ngắt đột ngột làm đôi, vẽ ra 2 chặng đường tiến quân. Điệp ngữ “nghìn thước” cùng nghệ thuật đối lập “lên cao- xuống” đã gợi tả độ sâu của vực đầy dữ dội, hiểm trở. Thì ra đọc thơ Quang Dũng ko chỉ như ngậm nhạc trong mồm nhưng mà còn như được thưởng tranh. “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc” là vì vậy. Nếu câu thơ trên trắc trở bao lăm thì câu thơ dưới lại mềm mại bất nhiêu, câu thơ trên chông chênh bao lăm thì dưới lại nhẹ nhõm bấy nhiêu, cảnh trên hiểm trở bao lăm thì cảnh bây giờ lại êm ả bấy nhiêu: “Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi”. Tâm hồn an nhàn được trải ra theo những âm bằng suốt cả câu thơ rồi.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Có những lúc, tự nhiên lại hiện lên thật hùng vĩ và dữ dội:“Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.“Thác gầm thét, cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm gia tăng sự hoang vu, dữ dội, bí ẩn của núi rừng Tây Bắc. “Chiều chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời kì lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Sức mạnh của tự nhiên ngự trị nơi đây chẳng hề chỉ có 1 chiều, 1 đêm nhưng mà là “chiều chiều, đêm đêm”. Nhưng đấy cũng là thời kì của những cuộc tiến quân Tây Tiến. Vì vậy nhưng mà 2 câu thơ mô tả cái thâm u, bí hiểm của rừng núi miền Tây Bắc càng khiến chân dung người chiến sĩ thêm cao mập, mạnh bạo.Những câu thơ tiếp theo là hình ảnh tự nhiên miền sơn cước tuyệt đẹp:“Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó thấy dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đu đưa”1 từ “chiều sương” thôi nhưng mà gợi được cả thời kì và ko gian. Cổ thi mỗi lúc đề cập chiều, tới sương là 1 nỗi buồn thiên cổ, là nỗi hoài cổ nghìn 5 gợi về:“Dặm liễu sương sa khách bước dồn”(Bà Huyện Thanh Quan).Nhưng câu thơ của Quang Dũng lại cho ta 1 cảm giác rất nhẹ nhõm, bình an. 1 từ “đó” vô danh mà lại hữu ý. Từ “đó” vô danh vì nó gợi đề cập 1 thời kì nào đấy, thỉnh thoảng cả chủ thể cũng chẳng thể xác định được: là “Buổi đó lòng ta nghe ý bạn” (Xuân Diệu), là “Từ đó”, “Mười lăm 5 đó” trong hồi tưởng của Tố Hữu. Nhưng đấy cùng là ngày chẳng thể lẫn vào đâu trong muôn nghìn buổi chiều vô danh khác trong đời: buổi chiều mang tên kỉ niệm, mang theo nỗi nhớ. Nhà thơ chỉ mất 1 ít rõ ràng mà nhận lại rộng lớn những ý nghĩa. Không phải là “cây lau”, “ngọn lau” hay “phận lau” như TS Chu Văn Sơn dùng trong bài tùy bút: “Phận hoa bên lề” nhưng mà là “hồn lau”. Cái “hồn” xưa nhưng mà Bà Huyện Thanh Quan đã viết: “hồn thu thảo” khiến cho câu thơ ko chủ đích tả nhưng mà gợi, ko chủ tâm vẽ nhưng mà khơi. Không thấy được hình dạng của ngọn lau mà có thể cảm thu được vong linh riêng của đại nghìn Tây Bắc. Cảnh theo lời thơ nhưng mà tan ra. 1 chút rõ ràng mất đi nhưng mà thêm rất nhiều thơ mộng. Câu thơ cuối làm xuất hiện bóng vía duyên dáng, uyển chuyển của người con gái Thái giữa cảnh tự nhiên mơ mộng, thanh bình. Hình ảnh “hoa” ko chỉ gợi về hình ảnh xứ sở Tây Bắc nghìn hoa nhưng mà còn là hình ảnh của cái đẹp. “Hoa đu đưa” là đang làm duyên với gió, với nước lúc đã nở trọn đời hoa để buông mình? Hay đấy là hình ảnh ẩn dụ của cái đẹp, của người con gái đang tình tứ nhưng mà bí ẩn làm duyên. Câu thơ có cái duyên của cảnh, duyên dáng của người và phải chăng còn là đôi mắt tình tứ của người ngắm cảnh nữa?Thiên nhiên còn là nơi bao bọc, mến thương, nơi để trở về của con người:“Áo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”Câu thơ sử dụng những từ Hán Việt: “áo bào”, “khúc độc hành” khiến cho ko khí phát triển thành long trọng. Những người lính mỏng manh áo vải lúc tranh đấu, tới lúc ngã xuống cũng không thể có 1 tấm chiếu để che mình. Hiện thực là thảm khốc, là đau thương như thế. Nhưng vào trong mà câu thơ Quang Dũng, nó tìm được nét trang nghiêm và sự kính trọng cần có. Những chiếc áo vải tranh đấu thành “áo bào” bởi những người lính đó xứng đáng là những chiến binh, những chiến sĩ kiên trì và đáng kính nhất. 1 từ “áo bào” thôi như sự ghi nhận, trân trọng đối với những con người đã dành cả tuổi thanh xuân vì dân tộc, hy sinh cả cuộc đời vì Non sông và những câu thơ đích thực ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa mập. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy oai nghiêm và long trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.Phần “vĩ thanh” của “hành” “Tây Tiến” gồm 4 câu muốn tiếp diễn cuộc hành trình của kí ức vượt lên theo dấu chân đoàn quân lừng tiếng:“Tây Tiến người đi ko hứa ướcĐường lên thăm thẳm 1 chia lìaAi lên Tây Tiến mùa xuân ấyHồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”Hai câu trên nhắc lại lời hứa ước của đoàn quân Tây Tiến thuở lên đường: “Chí mập chưa về bàn tay ko”. Hai câu sau vừa là lời tự nhắc nhở vừa là sự duyệt lại của kí ức để đi tới khẳng định: chẳng thể quên những chặng đường đã qua, người dù có đi nơi đâu vẫn gửi hồn về Sầm Nứa. Bởi vì chặng đường đã qua là kỉ niệm, là đồng chí, là sự góp sức, là cuộc đời riêng có cơ hội phát sáng trong cuộc đời chung của dân tộc, cách mệnh.Thiên nhiên trong thơ “Tây Tiến” có nét đẹp của những bức tranh sơn thủy trong thi ca xưa, trong những khúc ngâm cổ lại có nét gần cận, chân thật của cuộc sống bữa nay, có nét phong vị phóng khoáng nhưng mà hào hoa rất riêng đậm chất “Quang Dũng”. Đặc thù bài thơ còn sử dụng thể loại “Cổ phong trường thiên” (1 thể loại hành) để những tình cảm, xúc cảm ko bị bó buộc nhưng mà có thể trải dài theo đầu ngọn bút, hình ảnh tự nhiên cũng như thế nhưng mà phát triển thành bao la, bất tận. Hình ảnh thơ giản dị, thân thuộc mà lúc được ứng hiện vào nhau trong sự xếp đặt của Quang Dũng lại mang đến hiệu quả ko ngờ. Nếu nói “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” thì “Tây Tiến” là 1 viện dẫn điển hình. Với sự tài giỏi trong cách sử dụng và thông minh từ ngữ, Quang Dũng khiến người đọc như “ngậm nhạc trong mồm”, như thưởng tranh trong chữ. Văn pháp hiện thực đi liền với lãng mạn đã làm nên vẻ đẹp hào hùng, bi hùng cho những câu thơ. Đấy chính là phong vị rất riêng của thơ Quang Dũng: và dung dị, vừa bay bổng, ko mài giũa cầu kì nhưng mà mới lạ tới đáng kinh ngạc!Thiên nhiên ở đâu cũng đẹp, thơ về trăng-hoa-tuyết-núi-sông thời nào chẳng có. Nhưng sao hình ảnh tự nhiên trong “Tây Tiến” lại làm ta xao xuyến, khắc ghi vậy? Vì nó là cảnh của tình, của người, của 1 thời đại hào hùng và lớn lao…4. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 3(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})”Khi ta ở chỉ là nơi đất ởKhi ta đi đất đã hóa tâm hồn”(Chế Lan Viên)Trong cuộc đời mỗi người đã từng gắn bó với nhiều mảnh đất. Mỗi mảnh đất ta qua đều biến thành những kỉ niệm những dấu ấn khó quên. Nhà thơ Quang Dũng cũng đã trải đời qua xúc cảm đó. Thiên nhiên miền Tây Bắc đã để lại trong thi sĩ những xúc cảm riêng để rồi bức tranh đó đã được tạc lại đầy hào hùng và thơ mộng trong bài thơ “Tây Tiến”.“Tây Tiến” được thi sĩ sáng tác cuối 5 1948 tại làng Phù Lưu Chanh lúc Quang Dũng rời Tây Tiến đi làm nhiệm vụ khác. Cả bài thơ là 1 nỗi nhớ dài của những kỉ niệm “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Trong nỗi nhớ “chơi vơi” đó người đọc được khám phá và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của bức tranh tự nhiên Tây Bắc.Nếu người nào tới với Tây Bắc sẽ chẳng thể nào quên vẻ hùng vĩ và dữ dội của núi rừng nơi đây. Vẻ đẹp đó đã được thi sĩ Quang Dũng dựng lại trong những hình ảnh thơ đầy lạ mắt. Trước hết là thế tun hút của thế đèo cao dốc ngược:“Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, nghìn thước xuống”Với cách sử dụng điệp từ “dốc” cùng nhịp 4/3 và các láy từ “khuất khúc, thăm thẳm”, Quang Dũng như đang đưa từng nét vẽ cứng rắn và chắc khỏe và hình ảnh của những con dốc nối tiếp nhau đầy gồ ghề hiểm trở và ẩn chứa nhiều bất trắc. Cộng với dốc là những “Ngàn thước lên cao nghìn thước xuống”. Câu thơ được tạo thành từ 2 vế tiểu đối, hình tượng thơ tương hợp hài hòa, cảnh tượng núi rừng được đặc tả: 1 bên thì lên cao chon von, 1 bên xuống sâu thăm thẳm. Không gian thơ được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao tới chiều sâu hút của những dốc núi,chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng. Ba dòng thơ giàu tính tạo hình nhiều thanh trắc đã gợi mở bao hùng vĩ dữ dội của tự nhiên nơi đây. Hiểm nguy của núi rừng còn được đẩy cao qua hình ảnh:“Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”Núi rừng tây Bắc hiện lên với bao u ám, hoang dại với thời kì buổi chiều, về đêm càng nhấn mạnh vẻ hoang vu của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được thi sĩ sử dụng để tô đậm ấn tượng về về 1 vùng núi hoang sơ dữ dội. Cảm nghĩ như người đọc có thể nghe được từng bước chân, từng tiếng hầm hè của chúa sơn lâm, mối dọa nạt với những người chiến sĩ. Không chỉ vậy cái dữ dội, hùng vĩ của tự nhiên Tây Bắc còn được chi tiết qua hình ảnh của con sông Mã:”Sông Mã gầm lên khúc độc hành”Nội lực của câu thơ dồn vào động từ “gầm”. chỉ 1 chữ đó thôi cũng đủ thấy cái bi hùng hùng vĩ của con sông đang gầm gào dữ dội, ẩn chứa 1 sức mạnh béo mập.Thiên nhiên Tây Bắc đã lầm nền cảnh làm nổi trội vẻ hào hùng bi hùng của những người lính trên đường tiến quân phải trải qua biết bao nguy hiểm thách thức tới từ tự nhiên.Bức tranh tự nhiên Tây Bắc ko chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội nhưng mà còn thơ mộng trữ tình với những đường nét mềm mại:”Mường Lát hoa về trong đêm hơi”Không phải hoa nở nhưng mà là “hoa về”, chẳng hề đêm khuya nhưng mà là “đêm hơi”. Bằng cách sử dụng những thanh bằng, câu thơ ko tả nhưng mà chỉ thiên về gợi qua những đường nét ấn tượng đã đánh dấu những nét riêng của cảnh trí nơi này vừa mơ mộng huyền ảo vừa thực vừa hư, như sương như khói. Bao phủ lên tự nhiên Tây Bắc ko chỉ có cái kì ảo của đêm nhưng mà còn có cái êm dịu tươi mát của mưa rừng Tây Bắc:“Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi”Đối lập với những câu thơ mô tả sự hùng vĩ dữ dội, ở đây vẻ đẹp của tự nhiên đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn. Câu thơ được dệt bằng đông đảo thanh bằng gợi mở những hình ảnh nếp nhà ẩn hiện trong màn mưa nơi thung lũng Pha Luông. Không gian được đẩy xa,cái nhìn phát triển thành mờ ảo sương khói. Có mưa mà ko lạnh lẽo, hoang vắng nhưng mà toát lên cái bình an, thơ mộng. Làm nên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình cho bức tranh tự nhiên Tây Bắc còn phải kể tới 1 chiều sương trên sông nước Châu Mộc:“Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đu đưa”Núi cao ko còn trước mắt nhưng mà chỉ là 1 chiều sương với hồn lau, bến lách, dáng người trên con thuyền độc mộc, dáng hoa đu đưa. Ba chữ “chiều sương đó” với đại từ phiếm chỉ, ko xác định, gói trọn cả ko gian thời kì. Âm điệu câu thơ như trùng xuống chậm lại được kéo dãn ra. Cảnh thơ phát triển thành hữu tình với những ý thơ “hồn lau, hoa đu đưa”. “Hoa” ở đây có thể là hình ảnh thực của xứ Tây Bắc nghìn hoa cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ cho người con gái đang soi mình dưới dòng nước lũ. Hồn lau và hồn hoa hài hòa với tâm hồn người lính làm nên hồn thơ rất riêng. 1 chất thơ chất nhạc bàng bạc trong hình ảnh thơ. Những câu thơ phát triển thành thật đẹp vì nó được vẽ nên bởi tâm hồn mẫn cảm tinh tế của những chàng trai Hà Nội trước mảnh đất xứ lạ. Qua đấy vẻ đẹp hào hoa lãng mạn của người lính Tây Tiến được gián tiếp trình bày 1 cách đầy thi vị.Thiên nhiên trong cái nhìn của người chiến sĩ Tây Tiến giống như 1 tác phẩm hội hoạ hoàn hảo. Những nét vẽ táo tợn khoẻ khoắn, tiếng nói gân guốc ở đoạn đầu lúc phác hoạ núi cao rừng thẳm dữ dội liên kết với những nét vẽ thật nhẹ nhõm, tiếng nói mềm mại, nhịp thơ êm đềm thơ mộng lúc tả cảnh sông nước miền Tây. Và trên hết, tự nhiên Tây Bắc chính là phông nền để người lính Tây Tiến hiện lên như những người người hùng phi thường của sử thi thời chống Pháp. Đấy chính là cái tài giỏi của ngòi bút Quang Dũng.5. Phân tích bức tranh tự nhiên trong Tây Tiến – Mẫu 4Mỗi 1 vùng đất nhưng mà con người có dịp đặt chân tới ắt hẳn sẽ nhiều ít để lại trong lòng họ những ấn tượng khó phai. Với Quang Dũng thì Tây Bắc – nơi đoàn binh của ông đã từng sống và hoạt động ko chỉ là 1 miền nhớ dạt dào bởi ở đấy có bóng vía của những người đồng chí thân yêu nhưng mà nó còn để lại trong tâm não thi sĩ những dấu ấn về hình ảnh tự nhiên. Thiên nhiên đó, tuy hoang vu, xa xăm, hùng vĩ và dữ dội mà cũng rất thơ mộng và trữ tình. Những kí ức tươi đẹp về tự nhiên của vùng đất Tây Bắc đầy kỉ niệm của 1 thời lính trẻ sẽ được Quang Dũng trình bày trong những vần thơ của thi phẩm “Tây Tiến”.Cảm nhận về bức tranh tự nhiên Tây Tiến hay hình tượng người lính trong bài thơ, người đọc trước tiên cần nắm được đôi nét về tác giả cũng như tác phẩm.Quang Dũng, sinh 5 1922 – mất 5 1988, quê ở Đan Phượng thuộc tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông tên thật là Bùi Đình Diệm và lừng danh với vai trò là 1 thi sĩ với ti tỉ những tác phẩm điển hình cho nền văn chương giang sơn: “Rừng biển quê hương” (1957), “Đường lên Châu Thuận” (1964), “Rừng về xuôi” (1968), “Mây đầu ô” (1986).Kế bên việc trình bày sự tài giỏi của mình trong nghệ thuật thơ ca, thi sĩ còn cho thấy nhiều năng khiếu khác của bản thân như vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… Cũng giống như biết bao người trẻ trai hợp lí tưởng phụng sự sức mình cho quốc gia, Quang Dũng cũng xung phong vào lực lượng quân nhân giang sơn để rồi biến thành 1 thi sĩ – chiến sĩ gốc Hà Thành hào hoa, lịch thiệp.Đặc thù, sự sôi nổi, tích cực trong cả việc quân ngũ và sáng tác được trình bày nhất là vào quá trình từ sau Cách mệnh tháng 8. Chính tài năng và những dấu ấn của Quang Dũng trong thơ văn đã làm nên sự thành công trong sự nghiệp sáng tác, giúp ông được vinh danh với giải thưởng Nhà nước về Văn chương nghệ thuật.Có thể thấy, bức tranh tự nhiên Tây Tiến hiện lên trong tác phẩm mang vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội lại rất diễm kiều và trữ tình. Cảm nhận bức tranh tự nhiên Tây Tiến chính là việc phân tách những nét đẹp đấy về núi rừng tự nhiên Tây Bắc.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Qua những vần thơ nhưng mà Quang Dũng trình bày, bức tranh tự nhiên Tây Tiến được tái tạo với những nét vẽ vừa hùng vĩ, vừa dữ dội. Mỗi 1 địa danh hiện ra trên trang viết lại mang thuộc tính rất đặc biệt.“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi”Bức tranh tự nhiên Tây Tiến còn hiện lên với hình ảnh Sài Khao, Mường Lát với “sương lấp”, “đêm hơi” đã gợi ra sự bất lợi của điều kiện tự nhiên. Phcửa ải sống và làm việc trong địa hình khi nào cũng có sương phủ, hơi lạnh ắt hẳn người lính cũng phải chịu rất nhiều những cực khổ, khó khăn. Động từ “lấp” đã cho thấy sự lấn át con người của màn sương nơi đây cũng như cho thấy được cái gian truân cái giá lạnh nơi núi rừng.Những cực khổ, khó khăn đó cứ kéo dài từ ngày này qua tháng đã khiến cho những khó nhọc nhưng mà “đoàn quân mỏi” thêm phần nặng nề, gian truân hơn nữa. Không chỉ gặp vấn đề điều kiện thời tiết nhưng mà chặng đường tiến quân của người lính Tây Tiến cũng rất trắc trở, gồ ghề:“Dốc lên khuất khúc dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, nghìn thước xuốngNhà người nào Pha Luông mưa xa khơi.”Câu thơ có sự hiện ra của điệp từ “dốc” đã hình thành cảm giác trúc trắc, vời vợi của chặng đường phía trước nhưng mà những người chiến sĩ phải vượt qua. Không những vậy, những gian truân, trở lực đó lại như được nối tiếp lúc địa hình được mô tả với các đặc tính “khuất khúc”, “thăm thẳm”, “hẻo lánh”. Đây là những từ láy tượng hình có kết cấu nhiều thanh trắc đã đặc tả sự hiểm trở của bước đường tiến quân.Con đường đó ko chỉ vừa cao vừa tun hút nhưng mà còn hiu hắt và tĩnh mịch tới cực kỳ. Từ “nghìn thước” được lặp lại 2 lần cộng với cặp từ tương phản “lên” – “xuống”. Cộng với nhịp thơ 4/3 đã làm cho độ cao, độ sâu của địa hình thêm đậm nét. Bức tranh tự nhiên Tây Tiến còn hiện lên qua hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” vừa gợi được độ cao của con dốc vừa gợi được cái nghịch ngợm trẻ trung của người lính Tây Tiến.Đứng trước độ cao của con dốc phóng tầm nhìn chẳng thấy gì ngoài mây trắng che phủ mà người lính ko cảm thấy khiếp sợ cũng ko thấy mỏi mệt nhưng mà họ vẫn có thể nhìn tự nhiên bằng con mắt yêu đời. Người lính tiến quân vừa phải trải qua những đoạn đường trúc trắc, đứt gãy nhưng mà còn đương đầu với sự nguy hiểm, rợn ngợp của núi rừng và thú dữ:“Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.Sự hùng mĩ nhưng mà đầy dữ dội của bức tranh tự nhiên Tây Tiến còn trình bày qua sự rình rập của cọp dữ, tiếng gầm thét của thác cao như muốn góp thêm phần mình vào những trở lực để thách thức lòng can đảm của người lính. Nhưng dưới sự dữ dội có ẩn chứa những bất trắc như thế, người lính dù anh dũng tới như thế nào thì cũng có khi họ đã phát triển thành đuối sức rồi “gục lên súng mũ quên mất đời”. Hình ảnh nhân hóa liên kết với vòng thời kì “chiều chiều”, “đêm đêm” cho thấy sự gian truân lặp đi lặp lại như 1 điều thân thuộc với người lính tây tiến. Và góp phần tạo được giai điệu cho dòng thơ, diễn đạt được cái âm thanh của núi rừng ngút ngàn.Thế mà, lúc chứng kiến sự ra đi của những người người hùng áo lính, sông núi Tây Bắc trong phút tống biệt các anh dù vẫn hùng thiêng, dữ dội mà lại gây 1 sự xúc động mập lao trong lòng người vì tiếng thét gầm vang danh:“Áo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”Có thể thấy sự ra đi của người chiến sĩ đã có sức rung động mập lao tới tự nhiên tạo vật. Rõ ràng, trong sự ghi nhớ của những người lính, Tây Bắc là vùng đất có tự nhiên rất mực kì vĩ, hoa lệ và gắn liền với từng chặng đường tiến quân của các anh. Những gì các anh trải đời qua, những điều các anh từng nỗ lực đều in dấu lên các sườn dốc, nẻo đường của vùng đất đó….Thế nên, có nhẽ đối với các anh, bức tranh tự nhiên Tây Tiến nơi đây dù ko ít lần thách thức lòng can đảm, sự nhẫn nại bởi sự hùng vĩ, dữ dội mà có nhẽ nó cũng đỡ biến thành trợ thủ đi cùng cùng người chiến sĩ trong công việc tranh đấu. Do vậy, lúc 1 trong số những “người bạn” của mình rủi ro phải hy sinh thì vạn vật cũng thương tiếc khôn cùng.Viết “Tây Tiến”, Quang Dũng cùng lúc đã phác họa nên trước mắt người đọc bức tranh về tự nhiên của vùng đất này. Trong bức tranh đó, có những đường nét mạnh bạo, dữ dội như đã nói ở phần trên mà cũng có lúc, tự nhiên hiện ra với vẻ đẹp dịu dàng, trữ tình:“Nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi”Dòng thơ như vẽ ra trước mắt người đọc 1 quang cảnh rộng lớn bao la của núi rừng. Không gian đó như bị bao vây bởi cơn mưa ngút trời. Nhưng nét lạ mắt ở đây là cơn mưa đó ko gợi lên 1 ko khí âm u mỏi mệt hay nặng nề hoang vắng nhưng mà trái lại là 1 cảm giác thơ mộng, ấm áp. Bởi sự hiện ra của hình ảnh “nhà”.Mái nhà hiện lên trong tầm mắt của người chiến sĩ lúc anh phóng tầm mắt ra khơi. Mái nhà đó gợi biết bao lăm tình cảm. Đấy chính là điểm tựa là động lực để người lính Tây Tiến tranh đấu – tranh đấu để bảo vệ những mái nhà hạnh phúc đầm ấm. Đại từ “người nào” càng làm cho hình ảnh ngôi nhà như chìm sâu vào ảo mộng. Câu thơ toàn thanh bằng như 1 hơi thở nhẹ nhõm của người lính. Chỉ bấy nhiêu đấy thôi cũng đã đủ tiếp sức cho người lính trên bước đường tiến quân mỏi mệt này.“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi”Ví như trước đấy, những câu thơ gợi lên sự trắc trở, gồ ghề của chặng đường tiến quân thì những câu thơ này đã làm tự nhiên Tây Bắc như thơ mộng hơn lúc nó hiện ra cộng với hình ảnh bữa cơm ấm nồng ngun ngút khói, nếp xôi thơm nức cả thôn ấp.Chính những hình ảnh đấy đã tạo ra ko gian thật gần cận, thân thuộc của cuộc sống giữa tình thân với những bữa cơm ấm cúng nhưng mà mỗi người lính Tây Tiến đã từng có nơi quê nhà. Đặc thù, lúc đưa tầm mắt ra xa để thấy nhấp nhoáng bóng vía “nhà người nào Pha Luông mưa xa khơi” thì người chiến sĩ như tìm được cho mình điểm tựa để được vỗ về, xoa dịu sau biết bao những mệt mỏi, gian khó đã trải qua.Không gian, cảnh vật trong bức tranh tự nhiên Tây Tiến bỗng chốc cute tới cực kỳ, thậm chí có thể giúp những người lính trẻ biểu thị nét hóm hỉnh, tếu táo đùa vui: núi cao “hẻo lánh cồn mây” vời vợi là thế, khiến các anh khó nhọc là thế mà không phải đã tạo ra hình ảnh “súng ngửi trời” rất lôi cuốn đấy sao?Chính sự sáng sủa, vui vẻ, xem thường những trở lực, gian truân trong hành trình tiến quân đã khiến người lính Tây Tiến như đứng ở vị thế làm chủ tự nhiên. Bước đường tiến quân có nhẽ thành ra nhưng mà cũng vơi dần mệt nhọc, khó nhọc.Bức tranh tự nhiên Tây Tiến mang đặc biệt của vùng núi rừng hùng vĩ, hoa lệ, cũng có lúc trữ tình, nhẹ nhõm và đã có khi như chất chứa biết bao nỗi niềm, tâm tư của người lính với sự thơ mộng khiến con người quyến luyến, vương vấn:“Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó nhớ dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đu đưa”4 câu thơ vừa cho thấy nét thơ, vừa trình bày chất họa của 1 miền sông nước Tây Bắc nhưng mà cảm giác gợi lên trong lòng người những cảm giác bát ngát, kì ảo vì được chứng kiến 1 xứ sở tuyệt đẹp như trong cổ tích thuở xưa. Ba từ “chiều sương đó” đã gợi lên ko gian rộng lớn, bao la và gợi lên 1 thời điểm đã qua. Trong ko gian và thời kì đó, cảnh vật như cũng có vong linh riêng của nó (“hồn lau”) và con người thì hiện ra thật duyên dáng trên chiếc “độc mộc” xinh xinh.Thêm vào đấy, hình ảnh dòng nước có hoa trôi rất tình tứ trong hiện trạng “đu đưa” như làm dịu đi thuộc tính mạnh bạo, ồ ạt củ dòng nước lũ đổ về. Chỉ với vài nét chấm phá đơn sơ, cảnh vật và con người đã ẩn hiện trong màn sương của núi rừng Tây Bắc.Nhà thơ ko chỉ nỗ lực làm hiện lên trước mắt người đọc cái vẻ kì ảo của tự nhiên, sự hấp dẫn của con người nhưng mà còn hình thành nỗi ám ảnh trong lòng người đọc bởi cái hồn của cảnh đó và người đó. Cách lặp từ linh động “có thấy”, “có nhớ” cũng góp phần khiến cho nỗi nhớ bát ngát và cảm giác ấn tượng thêm thâm thúy trong lòng người. Cảm nhận về bức tranh tự nhiên Tây Bắc ta còn thấy vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của mảnh đất nơi đây hình như được khảm sâu và văng vẳng vào lòng người bằng những câu thơ với nhiều thanh bằng như an ủi đi những gian lao, mệt nhọc, khó nhọc.Về nội dung, bài thơ “Tây Tiến” đã cho người đọc tưởng tượng về 1 bức tranh tuyệt đẹp giữa ý chí, lòng cố gắng của những người chiến sĩ Tây Tiến và sự hùng vĩ, trữ tình của tự nhiên nơi đây. Những ấn tượng về bức tranh tự nhiên Tây Tiến và hình ảnh con người được hình thành trong những vần thơ của Quang Dũng đã cho thấy sự thành công của tác giả về bình diện nghệ thuật.Đấy là việc thi sĩ đã sử dụng ngòi bút tả chân, chẳng hề tránh né những mất mát, hy sinh cùng văn pháp lãng mạn, bay bổng. Kế bên đấy, sự linh động trong giọng thơ (lúc trang trong, đau thương, khi nhẹ nhõm, bay bổng) cộng với nhiều phép tu từ rực rỡ (đặc trưng là phép nói giảm nói tránh) đã hình thành dấu ấn khó phai lúc đề cập thi phẩm “Tây Tiến”.Tóm lại, bằng những nét vẽ vừa gân guốc, cứng cỏi mà cũng rất thanh thoả, nhẹ nhõm, Quang Dũng đã gợi nên 1 bức tranh tự nhiên vừa hùng vĩ, mĩ lệ mà lại cực kỳ thơ mộng. Thông qua bức tranh tự nhiên Tây Tiến đó, hình như thi sĩ cũng đã bí ẩn gửi gắm sự ca ngợi của mình về vẻ đẹp tâm hồn của người lính: trong gian truân, gian nan vẫn luôn sáng sủa, lãng mạn, hào hoa và chan chứa niềm tin vào cách mệnh.Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin có lợi khác trên phân mục Văn chương – Tài liệu của tasscare.vn.(adsbygoogle=window.adsbygoogle||[]).push({})Tham khảo thêm Top 4 bài cảm nhận về bài thơ Tây Tiến hay lựa chọn Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến Top 6 bài phân tách Tây Tiến của Quang Dũng hay nhất Phân tích bài thơ Tây Tiến Top 7 bài phân tách đoạn 3 Tây Tiến hay lựa chọn Phân tích khổ 3 Tây Tiến Cảm nhận vẻ đẹp hào hùng hào hoa của người lính Tây Tiến Top 5 bài phân tách đoạn 2 Tây Tiến hay lựa chọn Phân tích Tây Tiến khổ 2 Top 6 bài phân tách đoạn 1 Tây Tiến hay lựa chọn Phân tích khổ 1 Tây Tiến Top 4 bài phân tách hình tượng người lính Tây Tiến lựa chọn Hình ảnh người lính Tây Tiến của Quang Dũng
[rule_2_plain] [rule_3_plain]Tổng hợp: Tass Care